Tác giả: Duyên Nguyễn Ngày đăng: Tháng Mười Hai 29, 2022
Mục Lục Bài Viết
Xét nghiệm ELISA là phương pháp sinh hóa chủ yếu được dùng trong lĩnh vực miễn dịch học để giúp phát hiện ra sự hiện diện của một kháng nguyên hoặc kháng thể trong một mẫu. Vậy xét nghiệm ELISA HIV là gì?
Đây là hình thức xét nghiệm được ứng dụng phổ biến nhất. Thông qua việc phát hiện kháng thể kháng HIV, nó gián tiếp chỉ ra sự có mặt của loại virus này. Nếu kết quả sàng lọc dương tính với HIV, có kháng thể chống lại virus HIV nghĩa là đã nhiễm bệnh. Xét nghiệm ELISA có 4 phương pháp:
Ưu điểm:
Nhược điểm:
Nếu xét nghiệm ELISA HIV cho ra kết quả dương tính thì có thể bệnh nhân đã nhiễm virus HIV. Thế nhưng, kết quả có thể bị dương tính giả. Vì nếu mắc phải các bệnh như Lupus ban đỏ, giang mai,… và thực hiện xét nghiệm HIV thì vẫn cho ra kết quả dương tính giả.
Do đó, nếu kết quả xét nghiệm ELISA HIV dương tính thì bệnh nhân cần làm thêm những hình thức xét nghiệm phức tạp hơn để xác nhận lại. Cụ thể gồm có xét nghiệm Axit Nucleic (NAT) và xét nghiệm phát hiện kháng thể HIV-½. Người đó có khả năng cao bị nhiễm HIV nếu kết quả vẫn cho ra dương tính.
Xét nghiệm ELISA đôi khi không cho ra kết quả chính xác dù bệnh nhân đã thật sự phơi nhiễm. Tình trạng này có thể diễn ra nếu thực hiện xét nghiệm quá sớm khi kháng thể vẫn chưa được sản sinh đủ. Thời kỳ “cửa sổ” là giai đoạn đầu khi mới phơi nhiễm HIV sẽ kéo dài trong 3 – 12 tuần. Thế nhưng cũng có trường hợp kéo dài tận 6 tháng mới sản sinh đủ kháng thể. Do đó, trong giai đoạn này xét nghiệm ELISA vẫn cho ra kết quả âm tính.
HIV hiện vẫn là bệnh chưa có thuốc đặc trị. Do đó, thực hiện xét nghiệm ELISA HIV là rất cần thiết. Khi phát hiện bệnh sớm, bác sĩ sẽ kịp thời đề ra phác đồ chữa trị để hạn chế những ảnh hưởng xấu của virus. Hình thức xét nghiệm này được khuyến cáo áp dụng cho những đối tượng dưới đây:
Xét nghiệm ELISA HIV có 4 loại và nguyên lý hoạt động của chúng cũng khác nhau:
ELISA trực tiếp: Chủ yếu dùng loại xét nghiệm này để định tính, ít khi định lượng.
ELISA gián tiếp: Kháng nguyên virus HIV được cố định sẵn trên giá đỡ sẽ kết hợp đặc hiệu với kháng thể kháng HIV trong máu bệnh nhân. Phức hợp này sẽ được nhận biết đặc hiệu thông qua cộng hợp là kháng thể kháng Ig đã gắn Enzyme, rồi cho phản ứng hiện màu với một loại cơ chất phù hợp. Giá trị mật độ quang của phản ứng màu tỷ lệ thuận với lượng kháng thể kháng HIV có trong mẫu thử.
ELISA cạnh trạnh: Cơ chế hoạt động của nó là sự canh tranh của kháng thể kháng virus HIV trong mẫu thử với kháng thể kháng HIV đã được gắn với Enzyme đồng thời gắn lên những kháng nguyên đã cố định trên giếng. Giá trị của mật độ quang sẽ tỷ lệ nghịch với lượng kháng thể có trong mẫu thử.
ELISA sandwich: Kháng nguyên cố định trên giếng sẽ kết hợp đặc hiệu với kháng thể kháng HIV trong mẫu thử. Sau đó được các kháng nguyên virus có gắn Enzyme phát hiện. Giá trị mật độ quang của phản ứng màu sẽ tỷ lệ thuận với lượng kháng thể kháng HIV có trong mẫu.
Xét nghiệm ELISA HIV được thực hiện đơn giản bằng cách sử dụng mẫu máu của người nghi ngờ nhiễm virus HIV tại bệnh viện hoặc nhà riêng rồi gửi đến phòng thí nghiệm để tiến hành phân tích.
Tại phòng thí nghiệm, mẫu sẽ được kỹ thuật viên thêm vào đĩa petri có chứa kháng nguyên nghi ngờ liên quan đến virus HIV. Sau đó cho một loại Enzyme vào đĩa petri rồi quan sát cách kháng nguyên của Enzyme và mẫu máu phản ứng với nhau. Cả hai sẽ liên kết lại nếu máu của bệnh nhân có chứa kháng thể chống lại kháng nguyên. Vì vậy, trong trường hợp dương tính với virus HIV thì giấy thử sẽ có hiện tượng đổi màu.
Xét nghiệm sau 7 ngày có nguy cơ: Có thể thực hiện chẩn đoán sơ bộ sớm HIV sau 7 ngày tính từ thời điểm gặp nguy cơ. Kỹ thuật chẩn đoán cực kỳ nhanh chóng vì dùng hệ thống hoàn toàn tự động. Phương pháp xét nghiệm này là dùng phản ứng NAT hoặc PCR để phát hiện ra số lượng virus HIV cực bé.
Xét nghiệm HIV sau 1 tháng: Kỹ thuật này rất tốt và có thể giúp phát hiện hầu hết những trường hợp bị nhiễm HIV trong giai đoạn từ 14 – 21 ngày.
Phương pháp dựa vào nguyên tắc: Trong một vài tháng đầu sau khi nhiễm virus HIV, các kháng nguyên sẽ duy trì ở mức rất cao. Nó sẽ giảm đi cùng sự sụt giảm của tải lượng virus nhưng không bao giờ biến mất.
Xét nghiệm kháng thể HIV 1 – 2: Kỹ thuật này hỗ trợ phát hiện hơn 99% số trường hợp vừa mới nhiễm HIV ở 6 tuần sau khi có nguy cơ.
Xét nghiệm HIV sau 3 – 6 tháng: Đây chính là thời điểm thực hiện xét nghiệm HIV chính xác nhất chỉ với phương pháp test nhanh.
Chi phí xét nghiệm ELISA không có định mức cụ thể. Mức giá ở mỗi cơ sở y tế sẽ khác nhau. Nó phụ thuộc vào những yếu tố như chất lượng dịch vụ, trang thiết bị, máy móc, trình độ của bác sĩ, kỹ thuật viên,… Bạn hãy liên hệ trực tiếp với bệnh viện, trung tâm xét nghiệm, phòng khám để được báo giá chi tiết nhé.
ELISA là kỹ thuật kiểm tra gián tiếp thông qua cách phát hiện kháng thể kháng HIV bằng những chỉ số xét nghiệm HIV ELISA. Hiện có 4 phương pháp thực hiện là ELISA sandwich, ELISA cạnh tranh, ELISA gián tiếp và ELISA trực tiếp. Xét nghiệm ELISA được tiến hành bằng cách kiểm tra mẫu máu rồi đưa đến phòng thí nghiệm để phân tích. Có thể làm xét nghiệm sau 6 tuần hoặc chọn thời điểm dựa vào dấu hiệu của bệnh cũng như chỉ định của bác sĩ.
Một loại Enzyme sẽ được đưa đến để kết hợp với mẫu máu. Kỹ thuật viên sẽ theo dõi xem có xuất hiện phản ứng chống lại kháng thể virus hay không. Nó có phản ứng thì kết quả là dương tính. Tức là đã phát hiện ra kháng thể kháng HIV. Đồng nghĩa với việc bệnh nhân đã nhiễm virus HIV.
Bạn không cần quan tâm đến cách đọc kết quả xét nghiệm ELISA HIV. Vì hầu hết những cơ sở y tế uy tín đều có trách nhiệm đọc kết quả cũng như giải thích cho bạn về những chỉ số. Ngoài ra, bác sĩ phụ trách cũng sẽ hỗ trợ tư vấn phương pháp chữa trị, ngăn ngừa hiệu quả.