Tham vấn y khoa: Bác sĩ Nguyễn Văn Hòa | Tác giả: Duyên Nguyễn Ngày đăng: Tháng Tư 15, 2022
Mục Lục Bài Viết
Viện Sinh học Seattle, Mỹ đã thực hiện một nghiên cứu với 210 bệnh nhân mắc Covid. Mục tiêu là tìm ra điểm chung của các bệnh nhân gặp tình trạng Covid-19 kéo dài. Người bệnh đã hoàn thành một cuộc khảo sát về những triệu chứng như tiêu chảy, khó thở, mệt mỏi, ho, khó tập trung, trí nhớ có vấn đề, mất khứu giác và vị giác,…
Ước tính khoảng 37% người bệnh có 3 triệu chứng Covid-19 kéo dài trở lên. 24% báo cáo gặp 1 hoặc 2 triệu chứng. 39% còn lại không xuất hiện triệu chứng. Các triệu chứng ở đường hô hấp thường gặp nhất. Tiếp đó là triệu chứng thần kinh, mất khứu giác và vị giác, vấn đề ở đường tiêu hóa.
Với nhóm gặp 3 triệu chứng trở lên, 95% bệnh nhân có biểu hiện yếu tố nguy cơ mới được xác định (ít nhất 1 trong 4). Cụ thể, 4 yếu tố làm tăng nguy cơ mắc Covid kéo dài bất kể tình trạng nhiễm trùng ban đầu của người bệnh là nặng hay nhẹ gồm có:
Hầu hết các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc Covid kéo dài này đều có thể phát hiện vào thời điểm bệnh nhân được xác định dương tính lần đầu với SARS-CoV-2. Nếu kịp thời điều trị có thể ngăn ngừa một vài trường hợp bị Covid kéo dài. Tuy nhiên, nghiên cứu trên chỉ là bước khởi đầu. Các nhà khoa học cần tiếp tục tìm hiểu để xác định những vấn đề có liên quan một cách chính xác.
Trong các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc Covid kéo dài, đáng chú ý nhất là tự kháng thể. Nhóm nghiên cứu đã kiểm tra cụ thể 6 tự kháng thể của người bệnh. Kết quả cho thấy các kháng thể khác nhau có liên quan đến những triệu chứng Covid kéo dài khác nhau.
Điển hình, sự hiện diện của một tự kháng thể (gọi là IFN-α2) tại thời điểm chẩn đoán sẽ dự báo các triệu chứng Covid kéo dài liên quan đến hệ hô hấp. Kháng thể kháng IFN-α2 bám vào một loại chất truyền tin hóa học gọi là Interferon Alpha-2 có khả năng chỉ đạo các tế bào miễn dịch cụ thể hoạt động. Nghiên cứu cũng cho biết, kháng thể kháng IFN-α2 có thể khiến những tế bào miễn dịch kể trên hoạt động sai và thúc đẩy cơ thể sản xuất các phân tử gây viêm.
Bên cạnh đó, các nhà khoa học còn sàng lọc ra 5 tự kháng thể bổ sung, gọi là kháng thể kháng nhân. Chúng liên kết với Protein bên trong nhân tế bào. 5 kháng thể này liên quan đến những chứng rối loạn tự miễn dịch khác nhau. Gồm bệnh viêm khớp dạng thấp và Lupus. Thế nhưng liệu chúng có gây hại cho các tế bào hay chỉ là dấu hiệu của bệnh thì vẫn chưa được xác định rõ ràng. Nghiên cứu chỉ ra rằng, các kháng thể kháng nhân có liên quan đến những triệu chứng Covid kéo dài về đường hô hấp và tiêu hóa.
Ngược lại, 6 tự kháng thể không liên quan đáng kể đến các triệu chứng thần kinh. Thay vào đó, những triệu chứng thần kinh được cho là có liên quan đến các kháng thể nhắm vào virus. Theo nghiên cứu, kháng thể này nhắm đến Nucleocapsid của virus, sau khi nhiễm bệnh sẽ xuất hiện với số lượng lớn. Kháng thể là dấu hiệu cho thấy các cơ chế khác nhau có thể hiện diện thúc đẩy những triệu chứng Covid kéo dài khác nhau. Do đó, các kháng thể và triệu chứng thần kinh chính là yếu tố làm tăng nguy cơ mắc Covid kéo dài.
Epstein-Barr Virus (EBV) còn gọi là Herpesvirus 4 (HHV-4). Đây là 1 trong 8 loại virus Herpes phổ biến gây bệnh ở người. Các nhà khoa học báo cáo rằng EBV là yếu tố làm tăng nguy cơ mắc Covid kéo dài. Có khoảng 90 – 95% bệnh nhân mắc EBV. Sau khi gây ra tình trạng nhiễm trùng ban đầu, virus này sẽ ẩn trong các tế bào miễn dịch của cơ thể và không hoạt động.
Trường hợp bệnh nhân đang trải qua căng thẳng tột độ hoặc bị nhiễm trùng, EBV có thể “kích hoạt lại”. Tức là nó gây ra tình trạng nhiễm trùng hoạt động thêm một lần nữa. Người bệnh có EBV trong máu tiềm ẩn nguy cơ cao đối mặt với các vấn đề về trí nhớ, xuất hiện nhiều đờm và mệt mỏi.
Thông thường chúng ta sẽ không phát hiện ra các mảnh EBV bên trong máu. Nếu có EBV trong máu, đó chính là dấu hiệu cho thấy chúng đã hoạt động trở lại. EBV chủ yếu xuất hiện tại thời điểm bệnh nhân được chẩn đoán dương tính với SARS-CoV-2. Sau đó, nồng độ virus sẽ nhanh chóng giảm. Các nhà khoa học dự đoán, khi hệ thống miễn dịch tập hợp để chống lại SARS-CoV-2, EBV sẽ có cơ hội tái kích hoạt và gây ra những thiệt hại lâu dài cho cơ thể.
Ước tính có khoảng ⅓ bệnh nhân nhiễm Covid kéo dài bị đái tháo đường loại 2. Đặc biệt, những đối tượng có yếu tố nguy cơ này nhiều khả năng gặp triệu chứng ho, mệt mỏi,… và những di chứng hệ hô hấp khác. Bên cạnh đó, khoảng ⅓ bệnh nhân bị Covid kéo dài mang RNA hoặc vật liệu di truyền SARS-CoV-2 trong máu tại thời điểm chẩn đoán. Đồng thời những bệnh nhân này cũng dễ gặp triệu chứng Covid kéo dài có liên quan đến trí nhớ.
Bên cạnh 4 yếu tố làm tăng nguy cơ mắc Covid kéo dài kể trên, chúng ta hãy cùng tìm hiểu thêm về những yếu tố rủi ro khác nhé. Các nhà khoa học cho biết, bệnh nhân gặp triệu chứng hô hấp Covid kéo dài thường có nồng độ Hormone căng thẳng Cortisol trong máu thấp hơn bình thường. Đối tượng có triệu chứng thần kinh mang nồng độ Protein trong máu cao bất thường được xem là dấu hiệu phản ánh sự gián đoạn trong chu kỳ ngủ/thức.
Nghiên cứu trên được các nhà khoa học nhiều kinh nghiệm đánh giá cao. Tuy nhiên nó chỉ là điểm khởi đầu và vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Các nhà khoa học cần thêm thời gian để thực hiện nghiên cứu trên động vật để làm rõ những nghi vấn còn hiện hữu. Từ đó giúp chúng ta nhận định một cách chính xác tại sao và làm thế nào các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc Covid kéo dài gây ra các triệu chứng khác nhau. Và liệu những biến thể khác nhau có làm thay đổi di chứng Covid kéo dài mà bệnh nhân phải đối mặt hay không.