Tác giả: Nguyễn Hương Ngày đăng: Tháng Một 22, 2025
Mục Lục Bài Viết
Viêm khớp dạng thấp (RA – Rheumatoid Arthritis) là bệnh lý viêm khớp tự miễn mạn tính, do tổn thương xuất phát từ màng hoạt dịch của khớp. Bệnh phổ biến hơn ở phụ nữ, thường xuất hiện ở độ tuổi trung niên và có các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng rõ ràng.
Bệnh tự miễn này thay vì thực hiện chức năng bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn và virus, hệ miễn dịch lại tấn công vào các mô lành. Điều này dẫn đến tình trạng viêm bao hoạt dịch, gây ra các triệu chứng điển hình như sưng, nóng, đỏ và đau tại khớp. Nếu không được điều trị, bệnh có thể dẫn đến tàn phế và gây tổn thương các cơ quan khác như mắt, tim, phổi, da và mạch máu.
Viêm khớp dạng thấp thường ảnh hưởng đến các khớp đối xứng trên cơ thể, ví dụ như cả hai tay, hai cổ tay hoặc hai đầu gối. Đây là một đặc điểm quan trọng để phân biệt với các loại viêm khớp khác. Khi viêm xảy ra ở nhiều khớp (thường từ 4-5 vị trí trở lên), bệnh được gọi là viêm đa khớp dạng thấp.
Theo Hiệp hội thấp khớp học Hoa Kỳ (The American College of Rheumatology) ước tính khoảng 1,3 triệu người Mỹ đang mắc viêm khớp dạng thấp. Nguyên nhân chính xác gây rối loạn hệ miễn dịch vẫn chưa được xác định rõ. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng yếu tố di truyền đóng vai trò quan trọng, với một số gen đặc biệt làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Các yếu tố di truyền chịu trách nhiệm cho hơn hai phần ba các nguy cơ gây bệnh.
Viêm khớp dạng thấp nếu không được điều trị và kiểm soát tốt có thể dẫn đến nhiều biến chứng nghiêm trọng. Một số biến chứng thường gặp bao gồm:
Viêm khớp dạng thấp không được xếp vào nhóm bệnh có tính di truyền hoàn toàn. Các chuyên gia cho rằng nguyên nhân gây bệnh là sự kết hợp giữa yếu tố gen và môi trường. Nghiên cứu chỉ ra rằng trẻ em sống trong môi trường có người mẹ hút thuốc lá có nguy cơ mắc bệnh cao gấp đôi so với người lớn. Theo CDC Hoa Kỳ, nguy cơ mắc bệnh cao nhất khi người bệnh vừa mang gen liên quan đến bệnh, vừa có các yếu tố nguy cơ khác như hút thuốc lá hoặc béo phì. Tuy nhiên, các bác sĩ vẫn không thể dự đoán chính xác việc một người mang gen gây bệnh có chắc chắn phát bệnh trong tương lai hay không.
Hệ miễn dịch có chức năng bảo vệ cơ thể bằng cách tấn công các tác nhân gây bệnh từ bên ngoài như vi khuẩn và vi rút. Tuy nhiên, đôi khi hệ miễn dịch hoạt động không hiệu quả và tự tấn công các thành phần bình thường của cơ thể. Một số gen điều khiển đáp ứng miễn dịch có thể làm tăng nguy cơ mắc viêm khớp dạng thấp. Hiện nay, các nhà khoa học đã xác định được hơn 100 vị trí gen trên nhiễm sắc thể người có liên quan đến bệnh viêm khớp dạng thấp, bao gồm:
Việc mang các gen nêu trên làm tăng nguy cơ mắc viêm khớp dạng thấp, nhưng không phải ai có gen này cũng mắc bệnh, và không phải tất cả bệnh nhân đều có các gen này. Một số gen liên quan đến viêm khớp dạng thấp cũng liên quan đến các bệnh tự miễn khác như tiểu đường type 1 và bệnh đa xơ cứng. Điều này lý giải tại sao nhiều bệnh nhân có thể mắc đồng thời nhiều bệnh tự miễn.
Có nhiều yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng mắc viêm khớp dạng thấp, bao gồm tuổi tác và giới tính (nữ), là những yếu tố không thể thay đổi. Tuy nhiên, một số yếu tố khác có thể điều chỉnh được như hút thuốc lá và béo phì.
Những người có nguy cơ cao có thể chủ động giảm thiểu khả năng mắc bệnh bằng cách thực hiện các biện pháp sau:
Hiện nay, chưa có phương pháp chữa khỏi hoàn toàn viêm khớp dạng thấp. Tuy nhiên, việc chẩn đoán và điều trị sớm có thể giúp giảm viêm, giảm đau, ngăn ngừa hoặc làm chậm các biến chứng như biến dạng khớp, mất chức năng khớp và tổn thương các cơ quan khác.
Việc điều trị viêm khớp dạng thấp cần có sự phối hợp của nhiều chuyên khoa khác nhau. Các loại thuốc đặc hiệu được sử dụng chủ yếu gồm hai nhóm là thuốc sinh học và thuốc chống thấp khớp thay đổi bệnh (DMARDs). Ngoài ra, bác sĩ có thể kê thêm các loại thuốc điều trị triệu chứng như thuốc giảm đau và kháng viêm để giúp người bệnh cảm thấy dễ chịu hơn.
Để đạt hiệu quả điều trị tốt nhất và hạn chế tác dụng phụ, việc sử dụng thuốc cần tuân theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa. Bệnh nhân cũng cần được điều trị hỗ trợ bằng vật lý trị liệu nhằm tăng cường sức mạnh cơ và độ linh hoạt của khớp. Trong một số trường hợp, dù tuân thủ điều trị thuốc nhưng các khớp vẫn bị tổn thương, khi đó người bệnh cần được can thiệp phẫu thuật để sửa chữa tổn thương, giảm đau và phục hồi chức năng khớp.