Tác giả: Nguyễn Hương Ngày đăng: Tháng mười 29, 2024
Mục Lục Bài Viết
Máu (Blood) là chất lỏng lưu thông liên tục trong hệ thống tuần hoàn của cơ thể. Tim bơm máu đến các mô và cơ quan trong cơ thể, sau đó máu trở lại tim để tiếp tục chu trình tuần hoàn. Máu lưu thông trong hệ thống mạch máu, bao gồm: động mạch, tĩnh mạch và mao mạch.
Ngoài huyết tương (phần lỏng), máu còn chứa các tế bào máu như hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Sự hiện diện của các tế bào này làm tăng độ nhớt của máu so với nước. Khi hemoglobin kết hợp với oxy, tạo thành oxyhemoglobin có màu đỏ tươi (hemoglobin là một loại protein chứa sắt). Màu sắc này sẽ đậm hơn khi máu chảy qua các mao mạch và trao đổi oxy với các tế bào. Khi hemoglobin giải phóng oxy, trở thành deoxyhemoglobin có màu đỏ sẫm hơn.
Máu là thành phần quan trọng trong cơ thể người, chiếm khoảng 6-8% trọng lượng cơ thể. Lượng máu ở người trưởng thành dao động từ 5-6 lít ở nam giới và 4,5-5,5 lít ở nữ giới. Máu được cấu tạo bởi các tế bào máu bao gồm hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và một dịch có màu vàng chanh gọi là huyết tương.
Tế bào máu, hay còn gọi là tế bào tạo máu, được tạo ra thông qua quá trình tạo máu và được tìm thấy chủ yếu trong máu. Các loại tế bào máu chính bao gồm: Tế bào máu đỏ (hồng cầu), tế bào máu trắng (bạch cầu), tiểu cầu,… Ba loại tế bào máu này chiếm tới 45% tổng mô máu theo thể tích, còn lại 55% thể tích là huyết tương, phần chất lỏng của máu mang các tế bào và protein đi khắp cơ thể.
Tủy xương, một mô mềm xốp nằm trong các xương dẹt (xương sọ, xương ức, xương sườn, xương chậu, xương đốt sống…) và đầu tận xương dài (xương cánh tay, xương đùi, xương chày), là nơi sản xuất ra các tế bào máu.
Tủy xương là nơi sản sinh ra phần lớn các tế bào máu trong cơ thể, chiếm khoảng 95%. Tuy nhiên, quá trình tạo máu không chỉ diễn ra ở tủy xương. Các cơ quan khác như hạch bạch huyết, lá lách và gan cũng tham gia vào việc điều tiết quá trình sản xuất, tiêu hủy và biệt hóa của tế bào máu. Các tế bào gốc sẽ trải qua quá trình biệt hóa nhiều giai đoạn để trở thành các tế bào hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu trưởng thành.
Máu gồm hai thành phần chính là huyết tương và tế bào máu, trong đó tế bào máu gồm hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu và huyết tương gồm kháng thể, các yếu tố đông máu, protein, muối khoáng và nước. Mỗi thành phần trong máu đều có vai trò riêng biệt trong việc duy trì sự sống của cơ thể.
Ngoài ra, còn một số chất quan trọng khác như:
Máu di chuyển trong cơ thể theo một hệ thống tuần hoàn khép kín, nhờ sự co bóp của tim và hệ thống mạch máu. Quá trình lưu thông của máu diễn ra theo một vòng tuần hoàn khép kín, liên tục, được gọi là vòng tuần hoàn máu.
Trong quá trình di chuyển của máu, hai loại mạch máu chính có nhiệm vụ vận chuyển máu đi khắp cơ thể là động mạch và tĩnh mạch. Động mạch mang máu giàu oxy từ tim đến các mô và cơ quan trong cơ thể. Máu sau đó di chuyển qua các tĩnh mạch, trở về tim và phổi để nhận oxy, rồi lại được đưa trở lại cơ thể qua các động mạch.
Nhịp đập của tim có thể được cảm nhận rõ ở các vị trí như cổ và cổ tay, nơi các động mạch lớn chạy gần bề mặt da.
Máu được cấu tạo từ hai thành phần chính đó là: Huyết tương (khoảng 55%) và các tế bào máu (chiếm 45%) đóng vai quan trọng trong việc vận chuyển oxy, chất dinh dưỡng đến các tế bào và loại bỏ các chất thải ra khỏi cơ thể.
Huyết tương là thành phần lỏng (chứa hơn 90% nước), có màu vàng nhạt chiếm khoảng 55% tổng thể tích máu. Đây là một phần không thể thiếu của máu, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự sống của cơ thể. Ngoài nước, huyết tương còn chứa nhiều thành phần khác như đường, chất béo, protein, muối khoáng và các men. Các tế bào máu sẽ lơ lửng trong huyết tương.
Nước trong huyết tương có thể di chuyển tự do giữa các tế bào cơ thể và các dịch ngoại bào khác, giúp duy trì trạng thái hydrat hóa bình thường cho các mô.
Huyết tương có chức năng vận chuyển các chất dinh dưỡng, hormone, chất thải, khí (một phần nhỏ) đi khắp cơ thể. Đồng thời, huyết tương giúp duy trì độ pH, áp suất thẩm thấu, nhiệt độ cơ thể ổn định. Bên cạnh đó, fibrinogen chuyển hóa thành fibrin tạo thành mạng lưới bắt giữ các tế bào máu, hình thành cục máu đông.
Huyết tương chứa khoảng 7% protein, là yếu tố chính phân biệt huyết tương với dịch ngoại bào của mô. Protein trong huyết tương tạo ra áp suất thẩm thấu khiến nước di chuyển từ dịch ngoại bào vào huyết tương. Hầu hết protein huyết tương được sản xuất ở gan.
Albumin, một protein nhỏ trong huyết tương, giữ vai trò chính trong việc duy trì lượng nước trong máu nhờ tác dụng thẩm thấu. Lượng albumin quyết định thể tích huyết tương. Suy giảm albumin dẫn đến tích tụ chất lỏng ngoài mạch máu, gây phù nề. Ngoài ra, albumin còn đóng vai trò vận chuyển nhiều chất khác trong huyết tương, hoạt động như một protein vận chuyển không đặc hiệu.
Máu được cấu tạo bởi hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu, mỗi loại đóng vai trò riêng biệt trong việc duy trì hoạt động sống của cơ thể. Trong đó, hồng cầu là loại tế bào chiếm số lượng nhiều nhất.
Hồng cầu là một loại tế bào máu có hình dạng đĩa lõm hai mặt, không có nhân, đường kính trung bình khoảng 7,5µm, chiều dày 1µm ở trung tâm và 2µm ở ngoại vi. Cấu tạo thiếu nhân giúp tế bào hồng cầu trở nên linh hoạt hơn. Hồng cầu có màu đỏ tươi do chứa huyết sắc tố và chiếm hơn 40% thể tích máu. Số lượng hồng cầu bình thường ở nam giới là 4,5 – 6,2 triệu/µL, và ở nữ giới là 4,0 – 5,2 triệu/µL.
Hemoglobin là thành phần quan trọng nhất trong hồng cầu. Sự sản sinh hồng cầu được điều khiển bởi hormone Erythropoietin, được tạo ra ở thận. Sau khi trưởng thành (khoảng 7 ngày) chúng sẽ được giải phóng vào máu.
Tuổi thọ trung bình của hồng cầu là 120 ngày, hồng cầu già được tiêu hủy chủ yếu ở lách và gan. Tủy xương liên tục sản sinh hồng cầu mới để thay thế, duy trì lượng hồng cầu ổn định trong cơ thể.
Chức năng chính của hồng cầu là vận chuyển oxy từ phổi đến tất cả các tế bào trong cơ thể và sau khi đã cung cấp oxy cho các tế bào, hồng cầu sẽ thu gom khí carbon dioxide (một sản phẩm thải của quá trình trao đổi chất) và vận chuyển về phổi để thải ra ngoài.
Số lượng hồng cầu bình thường trong máu ngoại vi là: 4,66±0,36 T/l(x1012 tế bào/ lít) ở nữ giới và 5,05±0,38 T/l (x1012 tế bào/ lít) ở nam giới.
Bạch cầu là tế bào có chức năng bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân lạ như vi khuẩn, vi rút,… Bạch cầu được chia thành hai nhóm: bạch cầu hạt và bạch cầu không hạt. Bạch cầu hạt bao gồm bạch cầu trung tính, bạch cầu ưa acid và bạch cầu ưa base. Bạch cầu không hạt bao gồm bạch cầu mono và bạch cầu lympho. Bạch cầu trung tính là loại bạch cầu phổ biến nhất, chiếm 55% – 70% tổng số lượng bạch cầu và được coi là tế bào phản ứng đầu tiên khi cơ thể bị nhiễm trùng.
Số lượng bạch cầu trong máu bình thường dao động từ 3.700 -10.500 tế bào/µL. Sự thay đổi số lượng bạch cầu so với mức trung bình có thể là dấu hiệu của một số bệnh lý. Tuổi thọ của bạch cầu rất khác nhau, từ vài giờ đến nhiều năm. Bạch cầu mới liên tục được sản sinh ở tủy xương và một số cơ quan khác như lá lách, tuyến ức và hạch bạch huyết.
Bạch cầu trung tính có tuổi thọ ngắn, chỉ tồn tại chưa đầy một ngày, nên tủy xương phải liên tục sản xuất bạch cầu trung tính mới để duy trì khả năng chống nhiễm trùng. Việc truyền bạch cầu trung tính thường không hiệu quả vì chúng không tồn tại lâu trong cơ thể.
Tế bào lympho là một loại bạch cầu phổ biến, được chia thành hai nhóm chính: tế bào lympho T và tế bào lympho B.
Khác với hồng cầu và bạch cầu, tiểu cầu không phải là tế bào hoàn chỉnh mà là những mảnh tế bào nhỏ, có hình bầu dục. Số lượng tiểu cầu trong máu dao động từ 150.000 đến 400.000/µL. Tiểu cầu chỉ tồn tại khoảng 9 ngày và liên tục được thay thế bởi tiểu cầu mới được tạo ra từ tủy xương. Số lượng tiểu cầu bình thường trong máu ngoại vi thường dao động từ 150-300 G/l, trong đó: nữ là 274,0± 63,0 G/l, nam là 263,0± 61 G/l.
Chức năng chính của tiểu cầu là khi mạch máu bị tổn thương, tiểu cầu sẽ nhanh chóng tập hợp lại tại vị trí vết thương, tạo thành một cục máu đông để bịt kín vết thương, ngăn máu chảy ra ngoài. Sau khi cầm máu, tiểu cầu còn tham gia vào quá trình sửa chữa và tái tạo mạch máu bị tổn thương.
Cần lưu ý rằng số lượng tiểu cầu cao hơn bình thường có thể gây đông máu không cần thiết, dẫn đến nguy cơ đau tim và đột quỵ. Ngược lại, số lượng tiểu cầu thấp hơn bình thường có thể gây chảy máu nhiều, khó cầm máu.
Là những mảnh tế bào không có nhân, hình đĩa, đường kính khoảng 2-4µm, có màng bao bọc. Tiểu cầu là một cấu trúc rất hoạt động và đóng vai trò quan trọng trong quá trình cầm máu. Số lượng tiểu cầu bình thường trong máu ngoại vi dao động từ 150-300 G/l, trong đó: nam : 263,0± 61 G/l, nữ: 274,0± 63,0 G/l.
Lượng máu trong cơ thể người thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố như tuổi tác, giới tính, cân nặng và thể trạng chung của mỗi người. Tuy nhiên, chúng ta có thể đưa ra một con số ước tính trung bình.
Theo Hiệp hội Huyết học Hoa Kỳ, máu chiếm khoảng 7-8% trọng lượng cơ thể con người. Tổng lượng máu trong cơ thể mỗi người khác nhau tùy theo độ tuổi, giới tính, cân nặng và các yếu tố khác.
Trung bình, một người trưởng thành có khoảng 60 ml máu cho mỗi kg trọng lượng cơ thể, tương đương với 5-6 lít máu. Ở người trưởng thành có mức cân nặng trung bình, nam giới có khoảng 5,67 lít máu, trong khi nữ giới có khoảng 4,2 lít máu.
Lượng máu trong cơ thể của một người phụ thuộc vào độ tuổi và kích thước của họ. Mất một lượng máu nhất định sẽ không gây hại gì cho cơ thể. Tỷ lệ máu so với trọng lượng cơ thể là:
Số lượng máu trung bình của một người được ước tính như sau:
Máu có tác dụng gì? Máu đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sống của cơ thể, với nhiều chức năng thiết yếu:
Có bao nhiêu nhóm máu? Hai hệ thống nhóm máu phổ biến và quan trọng nhất là hệ thống ABO và Rh. Việc biết nhóm máu của bản thân rất quan trọng trong điều trị bệnh (như truyền máu) hoặc nhận tạng hiến từ người khác. Nếu nhóm máu không phù hợp, các kháng thể trong máu sẽ tấn công các tế bào máu mới, gây ra các biến chứng nguy hiểm có thể gây hại tính mạng.
Ví dụ, kháng thể kháng A sẽ tấn công các tế bào có kháng nguyên A.
Năm 1901, Karl Landsteiner đã phát hiện ra sự hiện diện của kháng nguyên A và B trên màng hồng cầu và các kháng thể tương ứng anti A và anti B trong huyết tương. Dựa vào sự có mặt hay vắng mặt của kháng nguyên A và B, người ta phân ra 4 nhóm máu chính:
Ở Việt Nam, nhóm máu O phổ biến nhất, chiếm khoảng 45% dân số. Tiếp theo là nhóm máu B (28,3%), nhóm máu A (21,2%) và nhóm máu AB (5,5%).
Hệ thống nhóm máu Rh được phát hiện vào năm 1940 bởi Lansteiner và các cộng sự. Trên bề mặt hồng cầu, ngoài các kháng nguyên A, B của hệ ABO, còn có một loại kháng nguyên khác gọi là kháng nguyên Rh. Người có kháng nguyên Rh trên hồng cầu được gọi là Rh dương, còn người không có kháng nguyên này được gọi là Rh âm. Trong các kháng nguyên Rh, kháng nguyên D là quan trọng nhất. Nếu một người có kháng nguyên D, người đó được coi là Rh dương.
Khi truyền máu Rh+ cho người Rh-, cơ thể người Rh- sẽ sản sinh ra kháng thể anti D. Quá trình này diễn ra chậm và thường đạt nồng độ tối đa sau 2-4 tháng. Nếu người Rh- tiếp tục nhận máu Rh+ trong lần sau, kháng thể anti D có sẵn trong cơ thể sẽ gây ngưng kết hồng cầu, dẫn đến hiện tượng truyền máu không tương hợp, rất nguy hiểm và có thể đe dọa tính mạng.
Ở Việt Nam, tỉ lệ Rh+ rất cao, khoảng 99,92%, nên những tai biến do không tương hợp nhóm máu Rh là rất hiếm gặp.
Bảng tóm tắt nhóm máu và khả năng cho/nhận máu
Nhóm máu | Cho máu cho | Nhận máu từ |
A+ | A+, A-, O+, O- | A+, AB+ |
A- | A-, O- | B+, AB+ |
B+ | B+, B-, O+, O- | B+, AB+ |
B- | B-, O- | B-, B+ AB+, AB- |
AB+ | Tất cả các nhóm máu | AB+ |
AB- | AB-, A-, B-, O- | AB-, AB+ |
O+ | O+, O- | O+, A+, B+, AB+ |
O- | O- | Tất cả các nhóm máu |
Một số rối loạn lâm sàng liên quan đến máu bao gồm: thiếu máu, đa hồng cầu, bệnh bạch cầu, giảm bạch cầu, bệnh máu khó đông (Hemophilia), giảm tiểu cầu, thiếu yếu tố đông máu do thiếu vitamin K, huyết khối, đông máu rải rác trong huyết quản,…
Thiếu máu là một bệnh phổ biến, xảy ra khi khả năng vận chuyển oxy của máu bị giảm do lượng hồng cầu hoặc hemoglobin trong hồng cầu thấp. Điều này khiến người bệnh dễ mệt mỏi, thở nhanh, khó tập trung, đặc biệt là trong công việc trí óc. Nguyên nhân thiếu máu có thể do thiếu sắt, mất máu cấp (do trĩ, rong kinh, chảy máu đường tiêu hóa…), suy tủy, hội chứng hồng cầu khổng lồ (thiếu máu ác tính),… Để hạn chế nguy cơ thiếu máu, chế độ ăn hàng ngày cần bổ sung các thực phẩm giàu sắt, acid amin, vitamin B12 và acid folic.
Mất máu từ 30-40% lượng máu (khoảng 1,5-2 lít máu) có thể gây tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời, truyền máu và bổ sung dịch muối.
Khuyến cáo y khoa: Các bài viết của Phòng khám Đa khoa Phương Nam chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.
Nguồn tham khảo:
1. Facts about blood. (2019, November 19). https://www.hopkinsmedicine.org/health/wellness-and-prevention/facts-about-blood
2. Hematology Glossary. (n.d.). https://www.hematology.org/education/patients/blood-basics