Tác giả: Duyên Nguyễn Ngày đăng: Tháng mười một 16, 2022
Mục Lục Bài Viết
Để phân biệt viêm gan B cấp tính và mãn tính, chúng ta cần xem xét dựa trên nhiều yếu tố như triệu chứng, dấu hiệu,… Hãy cùng Đa khoa Phương Nam tìm hiểu về bệnh viêm gan B cấp tính trước.
Nhiễm virus HBV gây ra nhiều bệnh lý về gan. Từ người mang bệnh cận lâm sàng cho đến suy gan cấp tính (viêm gan tối cấp) hoặc viêm gan nặng. Bệnh lý này ở người cao tuổi có tỷ lệ tử vong lên đến 10 – 15%. Đa phần người bệnh đều có biểu hiện đặc trưng, bao gồm sốt, khó chịu, chán ăn, nôn mửa, buồn nôn, sau đó là vàng da. Triệu chứng có thể kéo dài trong vài tuần đến 6 tháng.
Ước tính 5 – 10% người bệnh nhiễm virus HBV cấp tính sẽ phát triển thành viêm gan B mạn tính. Tuổi nhiễm viêm gan B cấp tính càng nhỏ thì khả năng phát triển thành dạng mạn tính càng lớn. Nguy cơ phát triển thành viêm gan B mạn tính với người bị suy giảm miễn dịch như sau:
Nếu viêm gan B chuyển sang giai đoạn mạn tính người bệnh có thể bị xơ gan, ung thư biểu mô tế bào gan ngay cả khi không mắc xơ gan trước đó.
Viêm gan B cấp tính sẽ được chẩn đoán thông qua hình thức xét nghiệm huyết thanh học. Trong quá trình chẩn đoán ban đầu của bệnh viêm gan B cấp tính, virus cần được phân biết với những rối loạn khác gây ra tình trạng vàng da. Nếu nghi ngờ mắc viêm gan B cấp tính, bác sĩ sẽ chỉ định những xét nghiệm dưới đây để sàng lọc virus viêm gan A, B, C:
Nếu kết quả của bất kỳ xét nghiệm viêm gan B nào dương tính thì có thể cần thực hiện thêm xét nghiệm huyết thanh học để bác sĩ phân biệt bệnh viêm gan cấp tính với viêm gan cũ hoặc mạn tính.
Nếu xét nghiệm huyết thanh học gợi ý là bệnh viêm gan B, bác sĩ sẽ chỉ định cho làm xét nghiệm kháng thể kháng nguyên e viêm gan B (anti-HBe) và kháng nguyên e viêm gan B (HBeAg) để xác định tiên lượng cũng như định hướng chữa trị kháng virus. Trong trường hợp xét nghiệm huyết thanh khẳng định bệnh nhân bị nhiễm HBV nặng sẽ cần đo virus viêm gan D (anti-HDV).
Viêm gan B có tối thiểu 3 hệ thống kháng thể kháng kháng nguyên riêng biệt có thể làm xét nghiệm, bao gồm: HBeAg, kháng thể lõi viêm gan B (HBcAg), HBsAg.
HBsAg
Xuất hiện đặc trưng ở giai đoạn ủ bệnh, thông thường là vào tuần 1 – 6 trước khi có triệu chứng lâm sàng hoặc trong hình thức xét nghiệm sinh hóa và thể hiện khả năng truyền nhiễm của máu. Trong quá trình hồi phục nó sẽ biến mất. Thế nhưng đôi khi HBsAg chỉ xuất hiện thoáng qua.
Kháng thể bảo vệ tương ứng (anti-HBs) xuất hiện sau đó vài tháng hoặc vài tuần, khi người bệnh đã hồi phục lâm sàng và thường sẽ kéo dài đến suốt đời. Do đó, phát hiện ra nó cho thấy trong quá khứ người bệnh đã nhiễm virus HBV và sở hữu miễn dịch tương đối. Ở 5 – 10% người bệnh, HBsAg vẫn đang tồn tại và những kháng thể không phát triển. Các bệnh nhân này trở thành những người mang virus không có dấu hiệu hoặc tiến triển sang giai đoạn viêm gan mạn tính.
HBcAg
HBcAg thể hiện kháng thể kháng lõi virus. Có thể tìm thấy nó trong những tế bào gan mắc bệnh. Tuy nhiên không thể tìm thấy HBcAg trong huyết thanh trừ khi dùng những kỹ thuật đặc biệt. Kháng thể kháng HBcAg (HBcAb hay anti-HBc) thường xuất hiện tại giai đoạn của bệnh trên lâm sàng. Độ chuẩn sẽ giảm dần sau đó, thường là qua nhiều năm hoặc kéo dài đến suốt đời. Sự xuất hiện của nó cùng anti-HBs cho thấy bệnh nhân có sự bình phục từ lần nhiễm virus HBV trước đó.
Anti-HBc cũng xuất hiện ở người không có phản ứng với anti-HBs và bệnh nhân mang HBsAg mạn tính. Ở trường hợp nhiễm bệnh cấp tính, anti-HBc chủ yếu thuộc loại IgM. Trong khi tại trường hợp nhiễm bệnh mạn tính, IgG anti-HBc lại chiếm ưu thế. IgM anti-HBc là một chất chỉ điểm nhạy với tình trạng nhiễm virus HBV cấp tính. Đôi khi nó cũng là chất chỉ điểm duy nhất với tình trạng nhiễm gần đây, biểu hiện giai đoạn cửa sổ giữa thời gian HBsAg tiêu biến và sự xuất hiện của anti-HBs.
HBeAg
Nó là một loại Protein có nguồn gốc từ lõi virus (tránh nhầm lẫn với virus viêm gan E). Chỉ xuất hiện bên trong huyết thanh dương tính với HBsAg. HBeAg có xu hướng thể hiện virus đang tính cực nhân lên và tính lây truyền cao hơn. Ngược lại, kháng thể tương ứng anti-HBe xuất hiện cho thấy tính lây nhiễm thấp hơn. Vì thế, các chất chỉ điểm kháng nguyên e hữu ích trong việc tiên lượng hơn chẩn đoán. Bệnh gan mạn tính thường xuyên xuất hiện hơn ở người bệnh có HBeAg và ít thường xuyên hơn với bệnh nhân có anti-HBe.
Các xét nghiệm khác
Cần tiến hành xét nghiệm gan nếu chưa tiến hành trước đó. Chúng bao gồm Phosphatase kiềm, Aspartate aminotransferase (AST), Alanine aminotransferase (ALT). Nên thực hiện những xét nghiệm khác để giúp đánh chức năng của gan, cụ thể gồm có: Bilirubin, Albumin huyết thanh và thời gian Prothrombin/tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế (PT/INR).
Viêm gan B cấp tính được chữa trị bằng cách:
Không có biện pháp chữa trị làm giảm viêm gan virus cấp tính, bao gồm cả viêm gan B. Bệnh nhân phải tránh uống rượu vì chúng có thể làm gan bị tổn thương. Những hình thức kiêng khem hoặc hạn chế hoạt động như nghỉ ngơi tại giường đều không có cơ sở khoa học.
Nếu xảy ra tình trạng viêm gan B tối cấp, chữa trị bằng Nucleoside hoặc các chất tương tự Nucleoside dạng uống có thể làm gia tăng khả năng sống sót. Thế nhưng ghép gan khẩn cấp là biện pháp mang đến khả năng sống sót cao nhất. Trẻ em sẽ có khả năng sống sót cao hơn, trong khi người trưởng thành thường không qua khỏi nếu chưa được ghép gan.
Cần khuyên người bệnh tránh những hành vi có nguy cơ cao, ví dụ như quan hệ với nhiều bạn tình, sử dụng chung bơm kim tiêm để chích ma túy. Máu và dịch cơ thể khác như tinh dịch, nước bọt,… cũng được xem là có khả năng lây truyền bệnh. Cần dùng chất tẩy rửa pha loãng để làm sạch dịch rơi ra. Hãy áp dụng phương pháp bảo vệ rào cản, cách ly người bệnh không có giá trị.
Nhiễm bệnh sau truyền máu được hạn chế bằng cách tránh tiến hành truyền máu khi không cần thiết, làm xét nghiệm sàng lọc viêm gan B, C với người hiến máu. Hình thức sàng lọc đã làm giảm bớt tỷ lệ nhiễm viêm gan B, C sau khi truyền máu.
Tiêm chủng
Chủng ngừa vắc xin HBV tại những vùng dịch lưu hành đã làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh ở địa phương. Người có nguy cơ cao từ lâu đã được khuyến cáo cần áp dụng biện pháp miễn dịch trước phơi nhiễm. Thế nhưng, tiêm ngừa chọn lọc cho nhóm đối tượng có nguy cơ cao tại những khu vực không xuất hiện dịch chưa làm giảm đáng kể tỷ lệ nhiễm virus HBV.
Người trưởng thành có nguy cơ cao bị nhiễm virus HBV cần được sàng lọc và chủng ngừa nếu chưa sở hữu miễn dịch hoặc đã mắc bệnh. Những nhóm đối tượng có nguy cơ cao bao gồm:
Dự phòng sau phơi nhiễm
Dự phòng miễn dịch sau khi phơi nhiễm virus HBV là sự kết hợp giữa việc tiêm HBIG và vắc xin. Hiệu quả của HBIG sau phơi nhiễm ở mức khoảng 75%. Với trẻ sơ sinh có mẹ dương tính với HBsAg cần chủng ngừa liều vắc xin đầu tiên và 0,5 ml HBIG vào bắp đùi ngay sau khi chào đời.
Bất kỳ ai quan hệ tình dục cùng bệnh nhân dương tính với HBsAg hoặc bị phơi nhiễm máu dương tính với HBsAg qua màng nhầy hay da cần được tiêm bắp vắc xin và 0,06 ml/kg HBIG trong vòng vài ngày. Bất kỳ người bệnh nào đã được chủng ngừa vắc xin trước đó nếu tiếp tục phơi nhiễm với HBsAg dương tính qua da đều cần làm xét nghiệm anti-HBs. Cần tiêm 1 liều vắc xin tăng cường nếu độ chuẩn < 10 mIU/mL.
Để có thêm thông tin giúp phân biệt viêm gan B cấp tính và mãn tính. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về bệnh viêm gan B mãn tính nhé.
Những triệu chứng của bệnh viêm gan B mạn tính sẽ thay đổi tùy vào mức độ tổn thương gan âm thầm. Nhiều người bệnh, nhất là trẻ em sẽ không biểu hiện triệu chứng. Thế nhưng người bệnh thường cảm thấy mệt mỏi, chán ăn, đôi khi bị sốt nhẹ và vùng bụng trên khó chịu không đặc hiệu. Bệnh vàng da thường không xuất hiện. Những phát hiện đầu tiên thường là:
Những biểu hiện ngoài gan bao gồm bệnh cầu thận, viêm nút quanh động mạch.
Bệnh viêm gan B mạn tính được chẩn đoán thông qua hình thức xét nghiệm huyết thanh học và sinh thiết gan. Cần nghĩ đến việc chẩn đoán viêm gan B mạn tính ở người bệnh có 1 trong những biểu hiện sau:
Chẩn đoán được khẳng định bằng phương pháp tìm ra kháng nguyên bề mặt viêm gan B dương tính (HBsAg), kháng thể IgG kháng nhân viêm gan B (IgG anti-HBc) và IgM anti-HBc âm tính. Đồng thời khẳng định bằng cách đo DNA virus viêm gan B (HBV-DNA định lượng).
Nếu bệnh viêm gan B đã được khẳng định, bác sĩ thường chỉ định làm thêm xét nghiệm kháng nguyên e viêm gan B (HBeAg) và kháng thể kháng kháng nguyên e viêm gan B (anti-HBe) để hỗ trợ xác định tiên lượng cũng như định hướng chữa trị kháng virus. Trường hợp kết quả xét nghiệm huyết thanh khẳng định nhiễm HBV nặng, cần tiến hành đo virus viêm gan D (anti-HDV).
Hình thức xét nghiệm HBV-DNA định lượng (tải lượng virus) cũng được dùng trước và trong quá trình chữa trị để đánh giá đáp ứng. Người ta tiến hành đánh giá xơ hóa không xâm lấn để đánh giá được mức độ xơ hóa sau khi chẩn đoán bị viêm gan B mạn tính. Sinh thiết đôi khi được áp dụng để loại trừ các nguyên nhân khác của bệnh gan và đánh giá mức độ tổn thương gan. Sinh thiết gan hữu ích nhất trong các trường hợp không đáp ứng những hướng dẫn chữa trị.
Các xét nghiệm khác
Cần tiến hành xét nghiệm gan nếu trước đó chưa làm, bao gồm: Phosphatase kiềm, Aspartate aminotransferase (AST), Alanine aminotransferase (ALT). Nên thực hiện những xét nghiệm khác để đánh giá độ nặng của bệnh và chức năng gan, bao gồm: Số lượng tiểu cầu, Bilirubin, Albumin huyết thanh và thời gian Prothrombin/tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế (PT/INR).
Người bệnh cũng cần được xét nghiệm viêm gan C và HIV bởi vì cơ chế lây lan của những căn bệnh này là tương tự. Nếu những dấu hiệu hoặc triệu chứng của Cryoglobulin huyết xuất hiện trong thời gian bị viêm gan mạn tính, cần đo nồng độ Cryoglobulin và yếu tố dạng thấp khớp. Yếu tố bổ thể ở mức thấp và khớp dạng thấp ở mức cao gợi ý về chứng Cryoglobulin huyết.
Sàng lọc các biến chứng
Người bệnh viêm gan B mạn tính cần thăm khám định kỳ 6 tháng/lần để sàng lọc ung thư biểu mô tế bào gan. Phương pháp được áp dụng là siêu âm và đo Alpha-fetoprotein trong huyết thanh.
Viêm gan B mạn tính được chữa trị bằng thuốc kháng virus, đôi khi sẽ áp dụng phương pháp ghép gan. Điều trị kháng virus sẽ được chỉ định cho những người bệnh viêm gan B mạn tính có ít nhất 1 yếu tố dưới đây:
Mục tiêu của việc chữa trị là loại bỏ HBV-DNA. Đôi khi chữa trị có thể làm mất kháng nguyên e viêm gan B (HBeAg). Hiếm gặp hơn là sẽ làm mất kháng nguyên bề mặt viêm gan B (HBsAg). Thế nhưng hầu hết người bệnh sẽ phải chữa viêm gan B mạn tính vô thời hạn. Vì những loại thuốc này không thể chữa khỏi bệnh.
Dừng chữa trị sớm có thể làm bệnh tái phát trở lại, thậm chí nặng hơn. Việc điều trị có khả năng cần dừng lại nếu gặp một trong số những trường hợp dưới đây:
Có nhiều loại thuốc kháng virus sở hữu hoạt tính chống lại viêm gan B. Tuy nhiên hiện nay chỉ có 4 loại được khuyến cáo dùng là: Tenofovir alafenamide, Tenofovir disoproxil fumarate, Entecavir và Pegylated interferon-alfa (Peginterferon alfa). Telbivudine, Lamivudine, Interferon alfa, Adefovir đã được dùng nhưng không còn khuyến cáo là loại thuốc chữa trị ưu tiên vì chúng làm gia tăng nguy cơ gặp phản ứng phụ và phát triển tình trạng kháng thuốc. Điều trị ưu tiên thông qua những loại thuốc dưới đây:
Các loại thuốc kháng virus đường uống mang đến ít phản ứng bất lợi và có thể được sử dụng cho người bệnh gan mất bù. Nhiễm toan Lactic là một phản ứng phụ tiềm ẩn, nếu có lo ngại về lâm sàng cần kiểm nồng độ Axit Lactic. Phương pháp kết hợp chưa được chứng minh là ưu việt hơn so với đơn trị liệu. Thế nhưng các nghiên cứu vẫn đang được tiến hành để đánh giá tác dụng của hai biện pháp kể trên. Trước khi bắt đầu chữa trị, bệnh nhân cần được làm xét nghiệm HIV.
Nếu không phát hiện được HBsAg và xảy ra tình trạng chuyển đổi huyết thanh HBeAg ở những người bệnh viêm gan B mạn tính dương tính với HBeAg thì các bệnh nhân này có thể dừng dùng thuốc kháng virus. Những người bệnh nhiễm HBV mạn tính âm tính với HBeAg phần lớn luôn cần sử dụng thuốc kháng virus đến suốt đời nhằm mục đích duy trì ức chế virus. Tiêu chí duy nhất để dừng chữa trị HBV là không còn phát hiện HBsAg.
Entecavir có khả năng kháng virus cao và ít xảy ra tình trạng kháng thuốc. Đây được xem là loại thuốc chữa trị HBV ưu tiên. Entecavir có hiệu quả với những dòng kháng Adefovir. Uống 1 liều 0,5 mg/ngày. Tuy nhiên, người bệnh trước đó đã sử dụng chất tương tự Nucleoside nên dùng 1 liều 1 mg đường uống/ngày. Bệnh nhân bị suy thận cần giảm liều. Những tác dụng bất lợi gần như không diễn ra phổ biến, mặc dù an toàn trong thai kỳ vẫn chưa được xác định.
Tenofovir đã thay thế cho Adefovir (chất tương tự Nucleotide cũ) làm loại thuốc chữa trị ưu tiên. Tenofovir là loại thuốc kháng virus đường uống mạnh nhất với bệnh viêm gan B. Tình trạng kháng thuốc ở mức tối thiểu. Thuốc có ít phản ứng bất lợi. Tenofovir có 2 dạng là:
Liều dùng TDF là uống 300 mg 1 lần/ngày. Có thể phải làm giảm tần suất dùng thuốc nếu độ thanh thải Creatinin giảm. Những tác dụng phụ tiềm ẩn bao gồm hội chứng Fanconi, bệnh thận và nhuyễn xương.
Nếu người bệnh đối mặt với nguy cơ bị suy thận cần kiểm tra độ thanh thải Creatinin, Phosphat huyết thanh, Glucose cũng như Protein nước tiểu ít nhất là mỗi năm. Cần cân nhắc xét nghiệm mật độ xương trong thời điểm ban đầu cũng như lúc điều trị nếu người bệnh có tiền sử gãy xương hoặc có khả năng bị loãng xương.
Liều dùng TAF là uống 25 mg 1 lần/ngày. Nếu độ thanh thải Creatinin giảm thì không cần chỉnh liều. TAF và TDF có hiệu quả tương tư nhưng TAF an toàn hơn xét về mặt độc tính với thận hoặc mật độ của xương. Trong quá trình chữa trị cần kiểm tra Creatinin huyết thanh, phốt pho, độ thanh thải Creatinin và Glucose cũng như Protein nước tiểu.
Có thể dùng Pegylated interferon alfa thay thế cho Interferon alfa. Liều Pegylated interferon alfa thường là 180 mcg đường tiêm 1 lần/tuần và duy trì trong 48 tuần. Phản ứng bất lợi tương tự như khi dùng Interferon alfa nhưng có thể ít nghiêm trọng hơn.
Ước tính 40% người bệnh được chữa trị bằng Pegylated interferon alfa báo cáo về tình trạng đau đầu, đau cơ, sốt, mệt mỏi. Những phản ứng phụ tiềm ẩn khác bao gồm rối loạn tự miễn, giảm tế bào máu, rối loạn cảm xúc. Chống chỉ định dùng Pegylated interferon alfa bao gồm:
Cần làm những xét nghiệm dưới đây để theo dõi người bệnh được chữa trị bằng Pegylated interferon alfa:
Có thể cân nhắc dùng những biện pháp kháng virus không ưu tiên (Telbivudine, Adefovir, Lamivudine, Interferon alfa) nếu không có sẵn những loại thuốc kể trên.
Nên cân nhắc ghép gan với người bệnh viêm gan B giai đoạn cuối. Ở người nhiễm virus HBV, việc duy trì dùng các loại thuốc kháng virus ưu tiên đường uống và sử dụng HBIG quanh thời gian ghép đã hỗ trợ cải thiện kết quả một cách tích cực sau khi ghép. Tỷ lệ sống sót cao hơn hoặc tương đương so với tỷ lệ đó ở những chỉ định sau ghép và làm giảm tình trạng tái phát viêm gan B.
Viêm gan B dù mạn tính hay cấp tính đều có cơ chế lây truyền như nhau. Bệnh lây chủ yếu qua 3 con đường máu, mẹ sang con, quan hệ tình dục không an toàn. Viêm gan B không lây truyền qua việc tiếp xúc thông thường như bắt tay, ôm.
Bệnh viêm gan B mạn tính và cấp tính đều có rất ít triệu chứng. Đặc biệt bệnh viêm gan B ở giai đoạn đầu có dấu hiệu rất mơ hồ, dễ nhầm với những căn bệnh khác. Bệnh nhân thường tình cờ phát hiện ra khi đi hiến máu hoặc khám tổng quát.
Bệnh ở thể ngủ yên hay người lành mang virus thường không có triệu chứng. Do đó, nhận biết dấu hiệu của bệnh là việc làm quan trọng để tránh bỏ qua giai đoạn vàng khi chữa trị. Quan trọng hơn là không để bệnh chuyển sang giai đoạn nghiêm trọng. Đặc trưng để phân biệt 2 dạng bệnh này là thời gian. Cụ thể, viêm gan B cấp tính sẽ xuất hiện thoáng qua, nhất thời. Viêm gan B mạn tính sẽ kéo dài trên 6 tháng.
Viêm gan B cấp tính | Viêm gan B mạn tính | |
Bản chất | Là giai đoạn đầu của bệnh viêm gan B. Nó phát sinh đột ngột và có thời gian lâm bệnh ngắn. | Khiến gan bị viêm và hoại tử tế bào. Có hoặc không kèm theo tình trạng xơ hóa. Bệnh diễn ra trong khoảng thời gian trên 6 tháng. |
Triệu chứng | Ước tính khoảng 40% người bệnh gặp những triệu chứng như:
|
|
Tiến triển | Có thể chữa trị khỏi bệnh một cách dứt điểm. | Không điều trị khỏi hoàn toàn được. Nếu được chữa trị tốt bạn sẽ tránh gặp phải biến chứng nguy hiểm. |
Nguy hiểm | Đa phần bệnh nhân hồi phục sau khoảng 1 – 2 tháng chữa trị. Thế nhưng có trường hợp bệnh sẽ kéo dài hàng tháng, hàng năm hoặc chuyển sang mạn tính, suy gan,… | Bệnh diễn tiến âm thầm theo thời gian. Virus sẽ khiến gan bị tổn thương, dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng như ung thư, xơ gan. |
Điều trị | Cơ thể có khả năng tự chống lại virus. Nghĩa là bệnh nhân không cần chữa trị. Bác sĩ sẽ theo dõi bệnh trạng và kiểm soát triệu chứng để tiêu diệt virus. | Bạn nên đến gặp bác sĩ chuyên khoa thăm khám. Hiện nay đã có phác đồ chữa trị bệnh viêm gan B mạn tính, bao gồm thuốc kháng/chống virus. |
Dưới đây là những biến chứng nguy hiểm của bệnh viêm gan B:
Xơ gan: Bệnh nhân có thể gặp triệu chứng rối loạn tiêu hóa, gầy sút, chán ăn, mệt mỏi, sợ mỡ, ăn không tiêu, phù hai chi dưới, rối loạn đại tiện, bụng trương phình. Nhiều trường hợp không gặp triệu chứng lâm sàng. Vì không có biểu hiện rõ rệt nên bệnh nhân thường chủ quan, tạo ra cơ hội bùng phát mạnh ở giai đoạn tiếp theo, dần vô hiệu hóa những chức năng của gan như thải độc, lọc máu,…
Ung thư gan: Triệu chứng ung thư gan thường gặp nhất là phù, đau bụng, sụt cân, cường lách và sốt. Ung thư gan là căn bệnh nặng, chữa trị khó khăn, diễn biến nhanh. Trong khi đa phần người bệnh ung thư gan lại phát hiện ở giai đoạn muộn. Việt Nam mỗi năm lại có thêm 25.000 người mắc mới. Tỷ lệ tử vong của bệnh lên đến 90%.
Bệnh não gan: Đây là một trong những biến chứng nghiêm trọng và thường xuất hiện trên nền một căn bệnh gan mạn tính. Chất độc hấp thụ từ ruột không được gan xử lý sẽ dần tích lũy vào máu rồi đưa lên não. Độc tính được tích tụ vào bên trong não ngày càng nhiều sẽ làm chức năng của cơ quan này suy giảm, khiến hệ thần kinh trung ương bị tổn thương. Từ đó nhận thức của người bệnh cũng bị suy giảm. Phù não trong suy gan cấp có thể dẫn đến thoát vị não, thậm chí gây tử vong.
Khả năng bệnh viêm gan B cấp tính chuyển thành mạn tính sẽ phụ thuộc nhiều vào độ tuổi lúc nhiễm virus HBV. Trẻ dưới 6 tuổi nhiễm virus dễ chuyển thành mạn tính. Ước tính 80 – 90% trẻ sơ sinh mắc viêm gan B sẽ chuyển sang giai đoạn mạn tính. Trong khi 30 – 50% trẻ nhiễm virus HBV trước 6 tuổi bị viêm gan B mạn tính.
Với người trưởng thành khỏe mạnh, khả năng không tiến triển thành mạn tính và khỏi bệnh là rất cao nếu phát hiện bệnh sớm. Bệnh nhân nên đến gặp bác sĩ chuyên khoa gan mật để thăm khám khi xuất hiện triệu chứng. Tránh tình trạng ủ bệnh lâu sẽ rất khó chữa trị.