Tác giả: Duyên Nguyễn Ngày đăng: Tháng mười 16, 2022
Mục Lục Bài Viết
Bệnh dại là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm gây ra bởi virus dại. Bệnh lây truyền sang người thông qua vết cào, cắn, liếm của động vật, thường là mèo, chó. Tính đến nay vẫn chưa có thuốc đặc trị bệnh dại. Tỷ lệ tử vong khi phát bệnh gần như là 100%. Tuy nhiên, chúng ta có thể chủ động ngăn ngừa bệnh dại bằng cách tiêm vắc xin.
Bộ Y Tế cũng đã đưa ra khuyến cáo về bệnh dại và cách phòng chống hiệu quả. Cụ thể, người dân cần thực hiện tốt những biện pháp dưới đây:
Tiêm phòng cho mèo, chó nuôi đầy đủ. Đồng thời tiến hành chủng ngừa nhắc lại mỗi năm theo khuyến cáo của cơ quan thú y.
Không thả rông mèo, chó. Phải rọ mõm chó khi ra đường.
Không trêu chọc, đùa nghịch mèo, chó.
Khi bị mèo, chó cào, cắn, liếm cần:
Bệnh dại là bệnh nhiễm virus cấp tính của hệ thống thần kinh trung ương. Nó lây từ động vật sang người bởi chất tiết. Thông thường là nước bọt đã bị nhiễm virus dại. Đa phần các trường hợp phơi nhiễm với bệnh dại đều qua vết cắn hay liếm của động vật nhiễm virus. Đôi khi bệnh nhân có thể bị nhiễm qua đường tiếp xúc, điển hình như hít phải khí dung hoặc ghép tổ chức mới. Một khi đã lên cơn dại thì cả người và động vật đều sẽ tử vong.
Giai đoạn tiền triệu chứng: Thường kéo dài từ 1 – 4 ngày. Biểu hiện điển hình là sốt, đau đầu, sợ hãi, khó chịu, mệt mỏi, đau và tê tại vết thương.
Giai đoạn viêm não thường có triệu chứng mất ngủ, gia tăng tình trạng kích thích như sợ tiếng động, ánh sáng, gió. Ngoài ra, nó còn làm rối loạn hệ thần kinh thực vật như khiến đồng tử bị giãn, vã mồ hôi, hạ huyết áp, tăng tiết nước bọt, đôi khi có biểu hiện xuất tinh tự nhiên ở đàn ông.
Bệnh tiến triển theo hai thể: Thể cuồng và thể liệt kiểu hướng thượng (hội chứng Landry).
Bệnh dại thường kéo dài trong 2 – 6 ngày, đôi khi lâu hơn và dẫn đến tử vong do bị liệt cơ hô hấp.
Bác sĩ sẽ chẩn đoán bệnh dựa vào những triệu chứng lâm sàng. Nhất là tình trạng sợ ánh sáng, nước, gió và những yếu tố dịch tễ học có liên quan.
Chẩn đoán xác định: Thông qua xét nghiệm kháng thể miễn dịch huỳnh quang trực tiếp (IFA) từ mô não hoặc tiến hành phân lập virus trên chuột hay trên hệ thống nuôi cấy tế bào. Có thể dựa vào kết quả xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang của các mảnh cắt da đã được tiến hành đông lạnh lấy từ dìa tóc ở gáy người bệnh hoặc thực hiện chẩn đoán huyết thanh thông qua phản ứng trung hòa trên chuột hay trên nuôi cấy tế bào. Với công nghệ mới tại thời điểm hiện tại, người ta có thể phát hiện được ARN của virus dại bằng phản ứng RT-PCR hoặc PCR.
Virus dại (Rhabdovirus) thuộc họ Rhabdoviridae, giống Lyssavirus là tác nhân gây bệnh.
Hình thái: Virus có hình viên đạn. Chiều dài trung bình từ 100 – 300 nm, đường kính khoảng 70 – 80 nm. Sự thay đổi chiều dài của virus phản ứng sự khác biệt giữa các chủng. ARN là bộ gen di truyền.
Virus dại có 67% Protein, 26% Lipid, 1% ARN và 3% Cacbohydrat. Vỏ virus có hai màng mỏng Phospholipid xen kẽ với các gai. Nucleocapside sở hữu cấu trúc đối xứng hình trụ. Nhân là ARN một sợi, nó được bảo vệ bởi các đơn vị Nucleoprotein mang tính đặc hiệu của họ Rhabdo. Chất Lipid là vỏ ngoài của virus nên dễ bị phá hủy trong các dung môi của Lipid.
Virus dại có sức đề kháng yếu, dễ bị bất hoạt ở 56 độ C trong vòng 30 phút, 60 độ C (5 – 10 phút) và 70 độ C (2 phút). Virus bị mất độc lực dưới tác động của chất sát khuẩn ở nồng độ 2 – 5% và ánh sáng. Virus sống được vài tuần đến 12 tháng trong điều kiện lạnh 4 độ C. Nó sẽ sống được 3 – 4 năm ở môi trường dưới 0 độ C. Virus dại chủ yếu được bảo tồn trong cơ thể vật chủ. Hiện có 2 chủng virus dại là:
Theo báo cáo của WHO, bệnh dại đang diễn ra phổ biến trên toàn thế giới. Ước tính mỗi năm có hơn 10 triệu người bị động vật dại hoặc nghi dại cắn và phải tiến hành chữa trị dự phòng bằng vắc xin. Bên cạnh đó, có khoảng 60.000 – 70.000 người tử vong vì bệnh dại mỗi năm, đa phần được báo cáo từ những quốc gia thuộc vùng nhiệt đới.
Tại Châu Âu, bệnh dại xảy ra chủ yếu ở Pháp, Thụy Sỹ, Áo, Đức, Ba Lan, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ. Bệnh dại đã lưu hành rộng rãi ở loài cáo, tại khu vực Tây Âu số ca nhiễm giảm rất mạnh từ năm 1992.
Thú hoang dã nhiễm virus dại ở Canada, Mỹ thường xảy ra ở cáo, chồn, gấu trúc, dơi và chó sói đồng. Trong những năm gần đây, các quốc gia này cũng phải dùng tới 1,2 triệu liều vắc xin dại.
Chó là nguồn gây bệnh chủ yếu ở châu Á và châu Phi. Số ca bệnh tử vong vì bệnh dại cũng rất cao. Ước tính mỗi năm tại Ấn Độ có khoảng 3 triệu người phải chủng ngừa dại, trong đó trẻ em chiếm đến 40%. Tại Trung Quốc có 226 trường hợp tử vong vì bệnh dại vào năm 2000. Con số này đã tăng lên 2.500 (năm 2006) và 3.300 (năm 2007). Tình hình tương tự cũng xảy ra ở Indonesia, Sri Lanka, Nepal,…
Số ca tử vong mỗi năm vì bệnh dại tại Đông Nam Á chiếm đến 80% trên toàn thế giới. Bệnh dại gia tăng rõ rệt từ năm 2004 ở các quốc gia này, trong đó có Việt Nam.
Tại nước ta, bệnh dại phát triển và lưu hành ở hầu hết các tỉnh/thành phố. Tỷ lệ tử vong trong những năm 1990 – 1995 là 0,43/100.000 dân. Ước tính trung bình mỗi năm có khoảng 350 – 500 ca tử vong. Vào năm 1996, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị 92/TTG về việc tăng cường phòng chống bệnh dại.
Các phương pháp ngăn ngừa dại đã được đẩy mạnh và kết hợp, hỗ trợ làm giảm số ca tử vong từ năm 1996 – 2007 đến 75% so với năm 1995. Từ 2004 đến nay, bệnh dại có chiều hướng gia tăng, tập trung tại một số tỉnh như Bình Thuận, Bến Tre, Gia Lai, Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ,… Cả nước có 131 ca tử vong do bệnh dại trong năm 2007.
Trong thiên nhiên, ổ chứa virus dại là động vật có vú máu nóng. Đặc biệt là chó hoang dã như chó sói (Woldes), chó sói đồng (Coyotes), chó nhà (Candae) và chó rừng (Jackals). Ngoài ra, ổ chứa virus dại còn có ở chồn, mèo và những động vật có vú khác.
Tại Mexico, Trung Mỹ, Nam Mỹ có ổ chứa virus ở loài dơi ăn hoa quả và dơi hút máu. Ở châu Âu, Canada, Mỹ còn tìm thấy loài dơi ăn sâu bọ nhiễm virus dại.
Tại các quốc gia đang phát triển, ổ chứa virus dại chủ yếu là ở chó. Bên cạnh đó còn tìm thấy virus dại ở chuột, mèo,…
Ở Việt Nam, chó chính là ổ chứa virus dại chủ yếu chiếm khoảng 96 – 97%. Tiếp theo là mèo chiếm khoảng 3 – 4%.
Nguồn truyền bệnh dại: Gồm động vật có vú hoang dã và con vật sống gần người như chó, mèo. Về lý thuyết, sự lây nhiễm từ người bệnh sang người lành có thể xảy ra thông qua nước dãi chứa virus. Tuy nhiên trên thực tế, chưa có báo cáo nào được công bố, trừ trường hợp cấy ghép giác mạc của người chết do bệnh dại.
Thời kỳ ủ bệnh: Thông thường, thời gian ủ bệnh ở người kéo dài từ 2 – 8 tuần. Cũng có trường hợp trên 1 – 2 năm hoặc ngắn hơn khoảng 10 ngày. Thời gian ủ bệnh sẽ tùy thuộc vào mức độ vết thương, số lượng virus xâm nhập, khoảng cách từ vết thương đến não bộ. Vết thương gần thần kinh trung ương, nặng thì thời gian ủ bệnh sẽ ngắn.
Thời kỳ lây truyền: Ở mèo, chó thường từ 3 – 7 ngày trước khi xuất hiệu triệu chứng lâm sàng và trong suốt quá trình con vật mắc bệnh. Theo WHO, thời kỳ lây nhiễm bệnh ở mèo, chó là trong vòng 10 ngày. Một số nghiên cứu cho thấy dơi và những động vật hoang dã khác như chồn sẽ đào thải virus dại tối thiểu 8 ngày trước khi biểu hiện dấu hiệu lâm sàng và có thể kéo dài đến 18 ngày trước khi tử vong.
Bệnh dại lây truyền thông qua nước bọt của động vật nhiễm virus dại tiết ra ngoài và theo vết căn, liếm, vùng da bị xước, rách (hoặc qua màng niêm mạc còn nguyên vẹn) đi vào cơ thể. Từ đó virus theo dây thần kinh đi đến các hạch và thần kinh trung ương.
Virus sẽ sản sinh rất nhanh khi đến thần kinh trung ương rồi lại theo dây thần kinh ra tuyến nước bọt. Ở thời điểm này, thần kinh chưa bị tổn thương nặng nên nhìn con vật vẫn bình thường. Tuy nhiên trong nước bọt hiện đã có virus. Sau đó, virus dại sẽ dần hủy hoại các tế bào thần kinh dẫn đến những triệu chứng lâm sàng.
Sự lây lan bệnh dại thông qua đường không khí đã được chứng minh ở môi trường phòng thí nghiệm và trong quần thể loài dơi sống tại hang động. Tuy nhiên, trường hợp này hiếm khi xảy ra. Hình thức lây truyền từ loài dơi hút máu nhiễm bệnh dại sang động vật nuôi trong nhà cũng gặp tại khu vực Mỹ La Tinh. Những loài dơi ăn sâu bọ nhiễm virus dại ở Mỹ hiếm khi truyền bệnh cho động vật sống trên mặt đất.
Tất cả các loại động vật máu nóng đều có cảm nhiễm với virus dại ở những mức độ khác nhau. Tính cảm nhiễm cao nhất là chó, chó sói, cáo, mèo rồi đến ngựa, trâu, bò, lạc đà, lợn, khỉ, chuột, gấu. Trong đó, chó là con vật bị dại nhiều nhất.
Dơi ăn côn trùng, dơi ăn hoa quả, dơi hút máu đều có thể mắc bệnh dại. Loài chim không mẫn cảm với virus dại, trừ khi chủ động gây bệnh để thí nghiệm. Người ta thường dùng chuột bạch, chuột lang, thỏ để phục vụ cho mục đích thí nghiệm. Con người cũng có cảm nhiễm với virus dại nhưng kém hơn so với một số loại súc vật.
Xử lý vết thương: Dùng xà phòng đặc rửa thật kỹ vết thương. Sau đó tiến hành rửa bằng nước muối, bôi dung dịch sát trùng để làm giảm lượng virus ở vết cắn. Chỉ khâu vết thương trong trường hợp vết cắn đã để quá 5 ngày. Điều trị chống nhiễm khuẩn và tiêm vắc xin uốn ván (nếu cần).
Bảo vệ bằng miễn dịch đặc hiệu: Sử dụng vắc xin dại tế bào hoặc dùng cả huyết thanh kháng dại và vắc xin để chữa trị dự phòng tùy vào tình trạng của súc vật, mức độ vết cắn, hiện trạng bệnh dại ở động vật trong vùng. Tránh lạm dụng huyết thanh kháng dại và vắc xin.
Bệnh nhân bị súc vật cắn hoặc tiếp xúc phải thăm khám càng sớm càng tốt để nhận chỉ định điều trị dự phòng. Hiệu quả chữa trị dự phòng sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kỹ thuật tiêm, loại vắc xin, đáp ứng miễn dịch của bệnh nhân và bảo quản sinh phẩm. Việc kiểm soát, giám sát các nội dung chuyên môn là vô cùng cần thiết.
Vắc xin dại: Vắc xin dại tế bào an toàn và mang đến hiệu lực bảo vệ cao. Từ năm 1992 nước ta đã sử dụng vắc xin dại tế bào Verorab. Dưới đây là 2 phác đồ được WHO đồng ý và khuyến cáo dùng:
Tình trạng vết cắn | Tình trạng súc vật (kể cả con vật đã tiêm ngừa) | Điều trị | |
Tại thời điểm cắn | Trong 15 ngày | ||
Da lành | Không chữa trị | ||
Da bị xước gần thần kinh trung ương | Bình thường | Tiêm vắc xin | |
Có triệu chứng dại | Tiêm huyết thanh kháng dại và vắc xin | ||
Da bị xước nhẹ và xa thần kinh trung ương | Bình thường | Theo dõi súc vật | |
Ốm, có triệu chứng dại | Tiêm vắc xin ngay khi con vật xuất hiện triệu chứng | ||
Vết xước nhẹ và xa thần kinh trung ương | Không theo dõi con vật được | Tiêm vắc xin ngay | |
Có triệu chứng dại | Tiêm huyết thanh kháng dại và vắc xin | ||
– Vết thương gần não
– Vết thương nhiều, sâu – Vết thương ở vùng đầu chi |
– Bình thường
– Không theo dõi con vật được |
Tiêm huyết thanh kháng dại và vắc xin càng sớm càng tốt |