Máu là gì? Máu gồm những thành phần nào?

Trang chủ > Chuyên khoa > Nội khoa > Huyết học > Máu là gì? Máu gồm những thành phần nào?

Tác giả: Nguyễn Hương Ngày đăng: Tháng mười 29, 2024

Máu là một chất lỏng đặc biệt, có màu đỏ tươi, lưu thông trong hệ thống mạch máu giúp duy trì sự sống và hoạt động bình thường của cơ thể. Bất kỳ sự thay đổi nào về thành phần hoặc lượng máu đều có thể ảnh hưởng đến sức khỏe. Vậy, máu là gì? Có bao nhiêu nhóm máu?

Máu là gì?

Máu (Blood) là chất lỏng lưu thông liên tục trong hệ thống tuần hoàn của cơ thể. Tim bơm máu đến các mô và cơ quan trong cơ thể, sau đó máu trở lại tim để tiếp tục chu trình tuần hoàn. Máu lưu thông trong hệ thống mạch máu, bao gồm: động mạch, tĩnh mạch và mao mạch.

Máu vận chuyển oxy, chất dinh dưỡng, hormone và các chất cần thiết khác đến các tế bào.
Máu vận chuyển oxy, chất dinh dưỡng, hormone và các chất cần thiết khác đến các tế bào.

Ngoài huyết tương (phần lỏng), máu còn chứa các tế bào máu như hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Sự hiện diện của các tế bào này làm tăng độ nhớt của máu so với nước. Khi hemoglobin kết hợp với oxy, tạo thành oxyhemoglobin có màu đỏ tươi (hemoglobin là một loại protein chứa sắt). Màu sắc này sẽ đậm hơn khi máu chảy qua các mao mạch và trao đổi oxy với các tế bào. Khi hemoglobin giải phóng oxy, trở thành deoxyhemoglobin có màu đỏ sẫm hơn.

Máu là thành phần quan trọng trong cơ thể người, chiếm khoảng 6-8% trọng lượng cơ thể. Lượng máu ở người trưởng thành dao động từ 5-6 lít ở nam giới và 4,5-5,5 lít ở nữ giới. Máu được cấu tạo bởi các tế bào máu bao gồm hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và một dịch có màu vàng chanh gọi là huyết tương.

Tế bào máu là gì? Nguồn gốc của tế bào máu

Tế bào máu, hay còn gọi là tế bào tạo máu, được tạo ra thông qua quá trình tạo máu và được tìm thấy chủ yếu trong máu. Các loại tế bào máu chính bao gồm: Tế bào máu đỏ (hồng cầu), tế bào máu trắng (bạch cầu), tiểu cầu,… Ba loại tế bào máu này chiếm tới 45% tổng mô máu theo thể tích, còn lại 55% thể tích là huyết tương, phần chất lỏng của máu mang các tế bào và protein đi khắp cơ thể.

Tế bào máu, là một tế bào được tạo ra thông qua quá trình tạo máu và tìm thấy chủ yếu trong máu.
Tế bào máu là một tế bào được tạo ra thông qua quá trình tạo máu và tìm thấy chủ yếu trong máu.

Trong máu có chất gì?

Máu gồm hai thành phần chính là huyết tương và tế bào máu, trong đó tế bào máu gồm hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu và huyết tương gồm kháng thể, các yếu tố đông máu, protein, muối khoáng và nước. Mỗi thành phần trong máu đều có vai trò riêng biệt trong việc duy trì sự sống của cơ thể.

Mỗi thành phần có chức năng khác nhau và liên quan mật thiết đến chức năng sống của cơ thể.
Mỗi thành phần có chức năng khác nhau và liên quan mật thiết đến chức năng sống của cơ thể.

Ngoài ra, còn một số chất quan trọng khác như:

  • Yếu tố đông máu
  • Kháng thể
  • Đường glucoza
  • Hormone
  • Chất đạm (protein)
  • Muối khoáng
  • Chất béo
  • Vitamin

Máu di chuyển trong cơ thể ra sao?

Máu di chuyển trong cơ thể theo một hệ thống tuần hoàn khép kín, nhờ sự co bóp của tim và hệ thống mạch máu. Quá trình lưu thông của máu diễn ra theo một vòng tuần hoàn khép kín, liên tục, được gọi là vòng tuần hoàn máu.

Hình ảnh sơ đồ vòng tuần hoàn máu ở người
Sơ đồ vòng tuần hoàn máu ở người
  • Máu giàu oxy được bơm từ tim đến các mô và cơ quan trong cơ thể. Sau khi trao đổi khí ở phổi, máu giàu oxy được vận chuyển về tim qua các tĩnh mạch phổi, đổ vào tâm nhĩ trái. Van hai lá mở ra cho phép máu chảy từ tâm nhĩ trái xuống tâm thất trái, sẵn sàng được bơm đi nuôi dưỡng cơ thể.
  • Khi tâm thất trái đầy máu sẽ co bóp, đóng van hai lá và mở van động mạch chủ. Lực co bóp đẩy máu qua van động mạch chủ vào động mạch chủ, từ đó máu được đưa đến toàn bộ cơ thể.
  • Máu rời khỏi tim, chảy qua hệ thống động mạch, đưa dưỡng chất và oxy đến mọi bộ phận trong cơ thể, từ não bộ đến tận cùng các ngón chân.
  • Máu lưu thông khắp cơ thể, thực hiện hai chức năng chính: cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho mọi cơ quan và mô, đồng thời thu gom carbon dioxide (CO2) và các chất thải khác.
  • Máu sau khi vận chuyển khắp cơ thể, mang ít oxy, sẽ chảy về tim qua hai tĩnh mạch chính: tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch chủ dưới. Hai tĩnh mạch này đổ trực tiếp vào tâm nhĩ phải của tim.
  • Máu từ tâm nhĩ phải chảy vào tâm thất phải qua van ba lá. Khi tâm thất phải đầy máu, nó sẽ co bóp, đóng van ba lá và mở van động mạch phổi, đẩy máu vào động mạch phổi. Máu đi qua động mạch phổi, đến các mao mạch phổi, nơi diễn ra quá trình trao đổi khí: máu nhận oxy và thải CO2.
  • Máu từ phổi trở về tim mang màu đỏ tươi, giàu oxy. Tim tiếp tục bơm máu này đi khắp cơ thể, bắt đầu một vòng tuần hoàn mới. Quá trình tuần hoàn máu diễn ra liên tục, không ngừng nghỉ.
  • Máu lưu thông chậm có thể dẫn đến hình thành cục máu đông, gây tắc nghẽn các mạch máu và thường dẫn đến các vấn đề nguy hiểm đối với sức khỏe, thậm chí gây tử vong nếu không can thiệp và điều trị sớm.

Trong quá trình di chuyển của máu, hai loại mạch máu chính có nhiệm vụ vận chuyển máu đi khắp cơ thể là động mạch và tĩnh mạch. Động mạch mang máu giàu oxy từ tim đến các mô và cơ quan trong cơ thể. Máu sau đó di chuyển qua các tĩnh mạch, trở về tim và phổi để nhận oxy, rồi lại được đưa trở lại cơ thể qua các động mạch.

Nhịp đập của tim có thể được cảm nhận rõ ở các vị trí như cổ và cổ tay, nơi các động mạch lớn chạy gần bề mặt da. 

Cấu tạo các thành phần trong máu

Máu được cấu tạo từ hai thành phần chính đó là: Huyết tương (khoảng 55%) và các tế bào máu (chiếm 45%) đóng vai quan trọng trong việc vận chuyển oxy, chất dinh dưỡng đến các tế bào và loại bỏ các chất thải ra khỏi cơ thể.

Máu được cấu tạo từ hai thành phần chính đó là: Huyết tương (khoảng 55%) và các tế bào máu (chiếm 45%)
Máu cấu tạo từ hai thành phần chính là: Huyết tương (khoảng 55%) và các tế bào máu (chiếm 45%)

Huyết tương

Huyết tương là thành phần lỏng (chứa hơn 90% nước), có màu vàng nhạt chiếm khoảng 55% tổng thể tích máu. Đây là một phần không thể thiếu của máu, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự sống của cơ thể. Ngoài nước, huyết tương còn chứa nhiều thành phần khác như đường, chất béo, protein, muối khoáng và các men. Các tế bào máu sẽ lơ lửng trong huyết tương.

Nước trong huyết tương có thể di chuyển tự do giữa các tế bào cơ thể và các dịch ngoại bào khác, giúp duy trì trạng thái hydrat hóa bình thường cho các mô.

Huyết tương có chức năng vận chuyển các chất dinh dưỡng, hormone, chất thải, khí (một phần nhỏ) đi khắp cơ thể. Đồng thời, huyết tương giúp duy trì độ pH, áp suất thẩm thấu, nhiệt độ cơ thể ổn định. Bên cạnh đó, fibrinogen chuyển hóa thành fibrin tạo thành mạng lưới bắt giữ các tế bào máu, hình thành cục máu đông.

Huyết tương đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc duy trì sự sống của cơ thể.
Huyết tương đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc duy trì sự sống của cơ thể.

Huyết tương chứa khoảng 7% protein, là yếu tố chính phân biệt huyết tương với dịch ngoại bào của mô. Protein trong huyết tương tạo ra áp suất thẩm thấu khiến nước di chuyển từ dịch ngoại bào vào huyết tương. Hầu hết protein huyết tương được sản xuất ở gan.

Albumin, một protein nhỏ trong huyết tương, giữ vai trò chính trong việc duy trì lượng nước trong máu nhờ tác dụng thẩm thấu. Lượng albumin quyết định thể tích huyết tương. Suy giảm albumin dẫn đến tích tụ chất lỏng ngoài mạch máu, gây phù nề. Ngoài ra, albumin còn đóng vai trò vận chuyển nhiều chất khác trong huyết tương, hoạt động như một protein vận chuyển không đặc hiệu.

Các tế bào máu

Máu được cấu tạo bởi hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu, mỗi loại đóng vai trò riêng biệt trong việc duy trì hoạt động sống của cơ thể. Trong đó, hồng cầu là loại tế bào chiếm số lượng nhiều nhất.

Nếu thiếu hoặc thừa một loại tế bào máu nào đó, cơ thể sẽ gặp nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng
Nếu thiếu hoặc thừa một loại tế bào máu bất kì, cơ thể sẽ gặp nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng

Hồng cầu

Hồng cầu là một loại tế bào máu có hình dạng đĩa lõm hai mặt, không có nhân, đường kính trung bình khoảng 7,5µm, chiều dày 1µm ở trung tâm và 2µm ở ngoại vi. Cấu tạo thiếu nhân giúp tế bào hồng cầu trở nên linh hoạt hơn. Hồng cầu có màu đỏ tươi do chứa huyết sắc tố và chiếm hơn 40% thể tích máu. Số lượng hồng cầu bình thường ở nam giới là 4,5 – 6,2 triệu/µL, và ở nữ giới là 4,0 – 5,2 triệu/µL. 

Hồng cầu chiếm số lượng nhiều nhất trong số các loại tế bào máu.
Hồng cầu chiếm số lượng nhiều nhất trong số các loại tế bào máu.

Hemoglobin là thành phần quan trọng nhất trong hồng cầu. Sự sản sinh hồng cầu được điều khiển bởi hormone Erythropoietin, được tạo ra ở thận. Sau khi trưởng thành (khoảng 7 ngày) chúng sẽ được giải phóng vào máu.

Tuổi thọ trung bình của hồng cầu là 120 ngày, hồng cầu già được tiêu hủy chủ yếu ở lách và gan. Tủy xương liên tục sản sinh hồng cầu mới để thay thế, duy trì lượng hồng cầu ổn định trong cơ thể.

Chức năng chính của hồng cầu là vận chuyển oxy từ phổi đến tất cả các tế bào trong cơ thể và sau khi đã cung cấp oxy cho các tế bào, hồng cầu sẽ thu gom khí carbon dioxide (một sản phẩm thải của quá trình trao đổi chất) và vận chuyển về phổi để thải ra ngoài.

Số lượng hồng cầu bình thường trong máu ngoại vi là: 4,66±0,36 T/l(x1012 tế bào/ lít) ở nữ giới và 5,05±0,38 T/l (x1012 tế bào/ lít) ở nam giới.

Bạch cầu

Bạch cầu là tế bào có chức năng bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân lạ như vi khuẩn, vi rút,… Bạch cầu được chia thành hai nhóm: bạch cầu hạt và bạch cầu không hạt. Bạch cầu hạt bao gồm bạch cầu trung tính, bạch cầu ưa acid và bạch cầu ưa base. Bạch cầu không hạt bao gồm bạch cầu mono và bạch cầu lympho. Bạch cầu trung tính là loại bạch cầu phổ biến nhất, chiếm 55% – 70% tổng số lượng bạch cầu và được coi là tế bào phản ứng đầu tiên khi cơ thể bị nhiễm trùng.

Tế bào bạch cầu chỉ chiếm khoảng 1% tổng lượng máu.
Bạch cầu là hàng rào bảo vệ đầu tiên của cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh.
Chức năng chính của bạch cầu là bao vây và tiêu diệt các vi khuẩn, virus, tế bào chết hoặc các vật lạ xâm nhập vào cơ thể. Một số loại bạch cầu sản xuất kháng thể để trung hòa độc tố và tiêu diệt các tác nhân gây bệnh. Đồng thời, bạch cầu tham gia vào quá trình điều hòa hệ miễn dịch, giúp cơ thể phân biệt được tế bào của chính mình và các tế bào lạ.

Tiểu cầu

Khác với hồng cầu và bạch cầu, tiểu cầu không phải là tế bào hoàn chỉnh mà là những mảnh tế bào nhỏ, có hình bầu dục. Số lượng tiểu cầu trong máu dao động từ 150.000 đến 400.000/µL. Tiểu cầu chỉ tồn tại khoảng 9 ngày và liên tục được thay thế bởi tiểu cầu mới được tạo ra từ tủy xương. Số lượng tiểu cầu bình thường trong máu ngoại vi thường dao động từ 150-300 G/l, trong đó: nữ là 274,0± 63,0 G/l, nam là 263,0± 61 G/l.

Chức năng chính của tiểu cầu là khi mạch máu bị tổn thương, tiểu cầu sẽ nhanh chóng tập hợp lại tại vị trí vết thương, tạo thành một cục máu đông để bịt kín vết thương, ngăn máu chảy ra ngoài. Sau khi cầm máu, tiểu cầu còn tham gia vào quá trình sửa chữa và tái tạo mạch máu bị tổn thương.

Cục máu đông sẽ dần ổn định và co lại, giúp vết thương được cầm máu hoàn toàn.
Cục máu đông sẽ dần ổn định và co lại, giúp vết thương được cầm máu hoàn toàn.

Cần lưu ý rằng số lượng tiểu cầu cao hơn bình thường có thể gây đông máu không cần thiết, dẫn đến nguy cơ đau tim và đột quỵ. Ngược lại, số lượng tiểu cầu thấp hơn bình thường có thể gây chảy máu nhiều, khó cầm máu.

Là những mảnh tế bào không có nhân, hình đĩa, đường kính khoảng 2-4µm, có màng bao bọc. Tiểu cầu là một cấu trúc rất hoạt động và đóng vai trò quan trọng trong quá trình cầm máu. Số lượng tiểu cầu bình thường trong máu ngoại vi dao động từ 150-300 G/l, trong đó: nam : 263,0± 61 G/l, nữ: 274,0± 63,0 G/l.

Cơ thể người có bao nhiêu lít máu?

Lượng máu trong cơ thể người thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố như tuổi tác, giới tính, cân nặng và thể trạng chung của mỗi người. Tuy nhiên, chúng ta có thể đưa ra một con số ước tính trung bình.

Trung bình, một người trưởng thành có khoảng 5-6 lít máu trong cơ thể.
Trung bình, một người trưởng thành có khoảng 5-6 lít máu trong cơ thể.

Lượng máu trung bình ở người trưởng thành

Theo Hiệp hội Huyết học Hoa Kỳ, máu chiếm khoảng 7-8% trọng lượng cơ thể con người. Tổng lượng máu trong cơ thể mỗi người khác nhau tùy theo độ tuổi, giới tính, cân nặng và các yếu tố khác.

Trung bình, một người trưởng thành có khoảng 60 ml máu cho mỗi kg trọng lượng cơ thể, tương đương với 5-6 lít máu. Ở người trưởng thành có mức cân nặng trung bình, nam giới có khoảng 5,67 lít máu, trong khi nữ giới có khoảng 4,2 lít máu.

Thay đổi về lượng máu trong cơ thể

Lượng máu trong cơ thể của một người phụ thuộc vào độ tuổi và kích thước của họ. Mất một lượng máu nhất định sẽ không gây hại gì cho cơ thể. Tỷ lệ máu so với trọng lượng cơ thể là:

  • Người trưởng thành: Xấp xỉ 7 – 8%
  • Trẻ em: Xấp xỉ 8 – 9%
  • Trẻ sơ sinh: Xấp xỉ 9 – 10%

Số lượng máu trung bình của một người được ước tính như sau:

  • Trẻ sơ sinh: Trẻ sinh đủ tháng có khoảng 75 ml máu trên mỗi kg trọng lượng cơ thể. Ví dụ, một đứa trẻ nặng 3.6kg sẽ có khoảng 270 ml máu.
  • Trẻ em: Một đứa trẻ nặng 36kg trung bình sẽ có khoảng 2.650 ml máu.
  • Người lớn: Người lớn trung bình nặng từ 65 đến 80kg nên có khoảng 4.5 đến 5.7 lít máu.
  • Phụ nữ mang thai: Để hỗ trợ thai nhi phát triển, phụ nữ mang thai thường có lượng máu nhiều hơn từ 30 đến 50% so với phụ nữ không mang thai.

Vai trò của máu đối với cơ thể

Máu có tác dụng gì? Máu đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sống của cơ thể, với nhiều chức năng thiết yếu:

Máu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc duy trì sự sống.
Máu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc duy trì sự sống.
  • Vận chuyển chất dinh dưỡng và oxy: Máu đóng vai trò vận chuyển oxy (O2) và carbon dioxide (CO2) giữa phổi và các tế bào, đồng thời vận chuyển các chất dinh dưỡng như glucose, axit amin, axit béo, vitamin… đến các tế bào.
  • Đưa chất thải đến thận và gan, lọc và làm sạch máu: Mang khí carbon dioxide từ các tế bào về phổi để thải ra ngoài. Đồng thời, vận chuyển các chất thải của quá trình trao đổi chất đến các cơ quan bài tiết như thận.
  • Đông máu: Khi mạch máu bị tổn thương, tiểu cầu sẽ nhanh chóng bám vào bề mặt vết thương và giải phóng các chất hóa học. Các chất này thu hút thêm nhiều tiểu cầu đến và kết dính lại với nhau, tạo thành một nút tiểu cầu tạm thời. Cục máu đông sẽ co rút lại, ép chặt vào thành mạch, giúp cầm máu hiệu quả hơn.
  • Kháng khuẩn: Nhiều loại bạch cầu có khả năng thực bào, tức là chúng “nuốt” và tiêu diệt các vi khuẩn xâm nhập. Một số loại bạch cầu (lympho B) có khả năng sản xuất kháng thể. Kháng thể là các phân tử protein đặc hiệu, có khả năng bám vào bề mặt của vi khuẩn, vô hiệu hóa chúng và đánh dấu chúng để các tế bào miễn dịch khác tiêu diệt.
  • Điều hòa nhiệt độ cơ thể: Máu hoạt động như một chất lỏng làm mát, hấp thụ nhiệt từ các cơ quan có hoạt động trao đổi chất cao (như gan, cơ bắp) và vận chuyển đến các vùng da để tỏa nhiệt ra môi trường. Khi cơ thể nóng, các mạch máu dưới da giãn nở để tăng diện tích tỏa nhiệt. Ngược lại, khi trời lạnh, mạch máu co lại để giữ nhiệt cho cơ thể.
  • Điều hòa độ pH: Máu chứa các hệ thống đệm giúp duy trì độ pH trong dịch ngoại bào trong khoảng 7,35 đến 7,45. Các hệ thống đệm này chuyển hóa các acid, base mạnh thành các acid, base yếu hơn, giúp cân bằng độ pH. Đồng thời, máu vận chuyển các chất có tính acid và base mạnh đến các cơ quan bài tiết.
  • Đảm bảo sự đồng bộ của các cơ quan trong cơ thể: Máu góp phần bảo vệ cơ thể bằng kháng thể và kháng độc tố, đồng thời điều hòa hoạt động của các cơ quan bằng cách vận chuyển hormone, oxy, carbon dioxide và các chất điện giải.

Phân loại nhóm máu

Có bao nhiêu nhóm máu? Hai hệ thống nhóm máu phổ biến và quan trọng nhất là hệ thống ABO và Rh. Việc biết nhóm máu của bản thân rất quan trọng trong điều trị bệnh (như truyền máu) hoặc nhận tạng hiến từ người khác. Nếu nhóm máu không phù hợp, các kháng thể trong máu sẽ tấn công các tế bào máu mới, gây ra các biến chứng nguy hiểm có thể gây hại tính mạng.

Ví dụ, kháng thể kháng A sẽ tấn công các tế bào có kháng nguyên A.

Có bốn nhóm máu chính là: A, B, AB hoặc O với Rh dương tính (+) hoặc âm tính (-).
Có bốn nhóm máu chính là: A, B, AB hoặc O với Rh dương tính (+) hoặc âm tính (-).

Hệ thống nhóm máu ABO

Năm 1901, Karl Landsteiner đã phát hiện ra sự hiện diện của kháng nguyên A và B trên màng hồng cầu và các kháng thể tương ứng anti A và anti B trong huyết tương. Dựa vào sự có mặt hay vắng mặt của kháng nguyên A và B, người ta phân ra 4 nhóm máu chính:

  • Nhóm máu A: Chỉ có kháng nguyên A trên hồng cầu và kháng thể B trong huyết tương.
  • Nhóm máu B: Chỉ có kháng nguyên B trên hồng cầu và kháng thể A trong huyết tương.
  • Nhóm máu AB: Có cả kháng nguyên A và B trên hồng cầu, nhưng không có kháng thể A và B trong huyết tương.
  • Nhóm máu O: Không có kháng nguyên A và B trên hồng cầu, nhưng có cả kháng thể A và B trong huyết tương.

Ở Việt Nam, nhóm máu O phổ biến nhất, chiếm khoảng 45% dân số. Tiếp theo là nhóm máu B (28,3%), nhóm máu A (21,2%) và nhóm máu AB (5,5%).

Hệ thống nhóm máu Rh

Hệ thống nhóm máu Rh được phát hiện vào năm 1940 bởi Lansteiner và các cộng sự. Trên bề mặt hồng cầu, ngoài các kháng nguyên A, B của hệ ABO, còn có một loại kháng nguyên khác gọi là kháng nguyên Rh. Người có kháng nguyên Rh trên hồng cầu được gọi là Rh dương, còn người không có kháng nguyên này được gọi là Rh âm. Trong các kháng nguyên Rh, kháng nguyên D là quan trọng nhất. Nếu một người có kháng nguyên D, người đó được coi là Rh dương.

Khi truyền máu Rh+ cho người Rh-, cơ thể người Rh- sẽ sản sinh ra kháng thể anti D. Quá trình này diễn ra chậm và thường đạt nồng độ tối đa sau 2-4 tháng. Nếu người Rh- tiếp tục nhận máu Rh+ trong lần sau, kháng thể anti D có sẵn trong cơ thể sẽ gây ngưng kết hồng cầu, dẫn đến hiện tượng truyền máu không tương hợp, rất nguy hiểm và có thể đe dọa tính mạng.

Ở Việt Nam, tỉ lệ Rh+ rất cao, khoảng 99,92%, nên những tai biến do không tương hợp nhóm máu Rh là rất hiếm gặp.

Bảng tóm tắt nhóm máu và khả năng cho/nhận máu

Nhóm máu Cho máu cho Nhận máu từ
A+ A+, A-, O+, O- A+, AB+
A- A-, O- B+, AB+
B+ B+, B-, O+, O- B+, AB+
B- B-, O- B-, B+ AB+, AB-
AB+ Tất cả các nhóm máu AB+
AB- AB-, A-, B-, O- AB-, AB+
O+ O+, O- O+, A+, B+, AB+
O- O- Tất cả các nhóm máu

Những vấn đề cần lưu ý

Một số rối loạn lâm sàng liên quan đến máu bao gồm: thiếu máu, đa hồng cầu, bệnh bạch cầu, giảm bạch cầu, bệnh máu khó đông (Hemophilia), giảm tiểu cầu, thiếu yếu tố đông máu do thiếu vitamin K, huyết khối, đông máu rải rác trong huyết quản,…

Thiếu máu là một bệnh phổ biến, xảy ra khi khả năng vận chuyển oxy của máu bị giảm do lượng hồng cầu hoặc hemoglobin trong hồng cầu thấp. Điều này khiến người bệnh dễ mệt mỏi, thở nhanh, khó tập trung, đặc biệt là trong công việc trí óc. Nguyên nhân thiếu máu có thể do thiếu sắt, mất máu cấp (do trĩ, rong kinh, chảy máu đường tiêu hóa…), suy tủy, hội chứng hồng cầu khổng lồ (thiếu máu ác tính),… Để hạn chế nguy cơ thiếu máu, chế độ ăn hàng ngày cần bổ sung các thực phẩm giàu sắt, acid amin, vitamin B12 và acid folic.

Mất máu từ 30-40% lượng máu (khoảng 1,5-2 lít máu) có thể gây tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời, truyền máu và bổ sung dịch muối.

Máu, chất lỏng đỏ tươi chảy khắp cơ thể, đóng vai trò trung tâm trong sự sống. Từ việc vận chuyển oxy đến các tế bào, bảo vệ cơ thể khỏi nhiễm trùng, hay điều hòa nhiệt độ, máu đều tham gia vào mọi hoạt động của cơ thể. Việc hiểu rõ về máu không chỉ giúp chúng ta trân trọng cơ thể mình hơn mà còn giúp chúng ta có những biện pháp bảo vệ sức khỏe hiệu quả.

Khuyến cáo y khoa: Các bài viết của Phòng khám Đa khoa Phương Nam chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.

Nguồn tham khảo: 

1. Facts about blood. (2019, November 19). https://www.hopkinsmedicine.org/health/wellness-and-prevention/facts-about-blood

2. Hematology Glossary. (n.d.). https://www.hematology.org/education/patients/blood-basics

Đánh giá bài viết
Bài viết này có hữu ích với bạn không?

Giờ làm việc

Thứ 2 - Chủ Nhật

Thời gian: 07h00p - 18h00p

Liên Hệ

  • 1/ Số 81 Phan Đình Phùng, Phường 1, Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng
    2/ Số 412 Quốc lộ 20, Thị trấn Liên Nghĩa, Huyện Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng

Đăng ký tư vấn ngay

Đăng ký ngay để được tư vấn miễn phí về sức khỏe của bạn!

Bạn chưa điền số điện thoại

DMCA.com Protection Status
*Lưu ý: kết quả điều trị còn phụ thuộc vào cơ địa từng người
Gọi ngay Đặt hẹn
CHAT NGAY
Địa Chỉ Bác sĩ