Tham vấn y khoa: Bác sĩ Trương Thị Hương | Tác giả: Duyên Nguyễn Ngày đăng: Tháng năm 7, 2022
Mục Lục Bài Viết
Xét nghiệm chức năng gan giúp bác sĩ kiểm tra chức năng gan của bệnh nhân và phát hiện những tổn thương ở cơ quan này. Xét nghiệm đánh giá chức năng gan thường được khuyến nghị thực hiện trong các tình huống dưới đây:
Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng tổn thương gan, ví dụ như:
Tổn thương ở gan thường diễn ra âm thầm, triệu chứng mơ hồ, không rõ ràng, dễ bị nhầm với những bệnh lý khác. Thậm chí, nhiều trường hợp còn không có biểu hiện lâm sàng. Triệu chứng của bệnh gan thường xuất hiện trong giai đoạn cấp tính. Rất nhiều người phát hiện bệnh gan khi khám dạ dày, kiểm tra sức khỏe định kỳ,… Vì vậy, xét nghiệm chức năng gan đóng vai trò rất quan trọng.
Cần thực hiện các xét nghiệm đánh giá chức năng gan để kiểm tra tình trạng của gan, phát hiện ra bệnh lý và xác định mức độ tổn thương cũng như theo dõi kết quả chữa trị. Những triệu chứng và dấu hiệu gợi ý bệnh lý gan gồm có:
Tuy nhiên, những bệnh lý về gan thường ít khi biểu hiện triệu chứng. Xét nghiệm chức năng gan đa phần được chỉ định cho đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh về gan, ví dụ như:
Xét nghiệm chức năng gan có thể chia thành các nhóm sau:
Transaminase không hoàn toàn đặc hiệu cho gan dù nó tăng trong hầu hết các bệnh lý về gan. Nguyên nhân là vì Transaminase cũng tăng ở những bệnh khác, ví dụ như Celiac, nhược giáp, cường giáp, tổn thương cơ vân, nhồi máu cơ tim,… Ngược lại, khi Urê máu tăng, các Enzym này có thể bị giảm giả tạo. Mức tăng Transaminase có liên quan đến một vài bệnh lý khác về gan, cụ thể như sau:
Nhóm xét nghiệm chức năng gan này gồm có:
Bilirubin huyết thanh
Bilirubin là sản phẩm chuyển hóa của Hemoglobin cũng như các Enzym có chứa Hemoglobin. Ước tính khoảng 95% Bilirubin được tạo ra từ sự thoái biến của hồng cầu gồm có hai thành phần là Bilirubin trực tiếp (TT) và Bilirubin gián tiếp (GT). Lúc bình thường, Bilirubin toàn phần đạt 0,8 – 1,2 mg/dL (5 – 17 mmol/L), Bilirubin TT 0,2 – 0,4 mg/dL (chiếm 30% Bilirubin TP), Bilirubin GT 0,6 – 0,8 mg/dL. Vàng da chỉ biểu hiện lâm sàng khi Bilirubin TP tăng > 2,5 mg/dL.
Bilirubin niệu
Chỉ hiện diện ở dạng Bilirubin TT. Nếu xuất hiện Bilirubin niệu, chắc chắn có vấn đề về gan. Thông qua que nhúng có thể nhanh chóng phát hiện ra Bilirubin niệu. Trước khi bị vàng da rõ trên lâm sàng, kết quả có khả năng cho ra dương tính. Nhưng lúc người bệnh hết vàng da, Bilirubin niệu sẽ trở về âm tính trước khi giảm Bilirubin huyết.
Urobilinogen
Đây là chất chuyển hóa của Bilirubin tại ruột. Urobilinogen sẽ được hấp thụ vào máu thông qua chu trình ruột – gan, sau đó bài tiết ra ngoài theo nước tiểu. Ở trường hợp tắc mạch hoàn toàn sẽ không tìm thấy Urobilinogen trong nước tiểu. Chất này gia tăng trong nước tiểu khi bệnh nhân bị xuất huyết tiêu hóa, bệnh lý về gan, tán huyết (tăng sản xuất). Chỉ số xét nghiệm gan bình thường sẽ có Urobilinogen dao động từ 0,2 – 1,2 đơn vị (phương pháp Watson).
Phosphatase kiềm
ALP là Enzym thủy phân các Ester Phosphat trong môi trường kiềm (pH = 9). Gan và xương là nguồn gốc chủ yếu của ALP. Ở nhau thai, thận, ruột thì ít hơn. Bình thường, xét nghiệm chức năng gan cho thấy ALP dao động từ 25 – 85 U/L hoặc 1,4 – 4,5 đơn vị Bodansky.
ALP tăng nhẹ và vừa (hai lần bình thường) có thể gặp ở bệnh xơ gan, viêm gan, di căn, thâm nhiễm tại gan (bệnh bạch cầu, Sarcoidosis, Lymphoma). Chỉ số xét nghiệm gan ALP tăng cao (3 – 10 lần bình thường) đa phần do tắc mật bên trong hoặc ngoài gan.
5’ Nucleotidase (5NT)
Đây là một loại ALP tương đối chuyên biệt cho gan. Nó giúp bác sĩ xác định tình trạng tăng ALP do xương hay gan hoặc những trạng thái sinh lý khác, ví dụ như phụ nữ có thai, trẻ em đang tăng trưởng. Sự gia tăng 5NT tương quan với mức tăng ALP. Bình thường 5NT đạt 0,3 – 2,6 đơn vị Bodansky/dL.
g-glutamyl transferase, g-glutamyl transpeptidase (GGT, g-GT)
Bình thường, GGT sẽ đạt 30 U/L (với nữ giới) và 50 U/L (ở nam giới). Nguyên nhân thường gặp nhất là tình trạng tắc mật, nghiện rượu mạn tính, sau khi dùng một số thuốc gây cảm ứng Enzym ở gan (Phenytoin, Acetaminophen) và gan nhiễm mỡ (không phải do rượu). Ngoài ra, chỉ số này cũng có thể gặp ở bệnh nhân bị phổi tắc nghẽn mạn tính, cường giáp, đái tháo đường, viêm tụy cấp, nhồi máu cơ tim, suy thận,…
Amoniac máu (NH3)
NH3 sẽ được sản xuất từ quá trình chuyển hóa bình thường của Protein trong cơ thể hay do vi khuẩn sống tại đại tràng. Gan có vai trò khử độc NH3 bằng cách chuyển hóa thành Urê để thải qua thận. Kết quả xét nghiệm chức năng gan bình thường cho thấy NH3 máu ở mức 5 – 69 mg/dL. NH3 sẽ gia tăng trong các bệnh gạn mạn và cấp tính. Để chẩn đoán bệnh não do gan, NH3 máu không phải là xét nghiệm đáng tin cậy. NH3 có thể quay về trạng thái bình thường trong khoảng 48 – 72 giờ trước khi tình trạng thần kinh được cải thiện.
Đa phần các Protein huyết tương được tổng hợp từ gan:
Gan là bộ phận duy nhất tổng hợp Albumin cho cơ thể. Albumin hỗ trợ vận chuyển các chất trong máu (đặc biệt là thuốc) và duy trì áp lực keo ở lòng mạch. Albumin ở mức 35 – 55 g/L. Hàm lượng Albumin máu chỉ giảm khi bị tổn thương gan rất nặng hoặc mắc bệnh xơ gan. Với người bệnh xơ gan cổ trướng, Albumin giảm còn do bị thoát vào trong dịch báng. Ngoài ra, tình trạng này còn gặp khi bị suy dinh dưỡng hoặc mất Albumin qua hệ tiêu hóa (viêm đại tràng mạn) và đường tiểu (hội chứng thận hư).
Globulin huyết thanh
Globulin huyết thanh được sản xuất từ nhiều nơi khác nhau trong cơ thể, bao gồm những kháng thể tham gia vào hệ thống miễn dịch thể dịch và nhiều loại Protein vận chuyển các chất trong máu. Chỉ số Globulin bình thường khi xét nghiệm chức năng gan sẽ ở mức từ 20 – 35 g/L.
Globulin sẽ tăng cao nếu bị xơ gan. Bên cạnh đó, kiểu tăng của các loại Globulin cũng gợi ý đến một số bệnh lý về gan, ví dụ như: IgM tăng trong xơ gan ứ mật nguyên phát, IgG tăng khi mắc bệnh viêm gan tự miễn.
Thời gian Prothrombin (PT)
Đây là thời gian chuyển Prothrombin thành Thrombin khi có Ca++ và Thromboplastin cùng các yếu tố đông máu. Người ta thường chuyển đổi thành INR để chuẩn hóa kết quả PT. INR bình thường ở mức 0,8 – 1,2. PT kéo dài là dấu hiệu tiên lượng nặng.
Trước khi xét nghiệm chức năng gan, bệnh nhân cần thông báo cho bác sĩ biết về những loại dược phẩm bản thân đang sử dụng, gồm có cả các sản phẩm không cần kê đơn.
Tất cả những xét nghiệm chức năng gan được đề cập ở trên đều là xét nghiệm máu. Bác sĩ có thể chỉ định cho bệnh nhân thực hiện một hay nhiều lần dựa vào tình huống lâm sàng cụ thể.
Nếu các giá trị đều nằm trong giới hạn cho phép thì kết quả xét nghiệm đó được xem là bình thường. Trường hợp nhận kết quả bất thường, tùy vào tình huống cụ thể và việc khám lâm sàng, bác sĩ có thể chỉ cho bệnh nhân thực hiện thêm một số xét nghiệm, kỹ thuật cận lâm sàng. Qua đó, bác sĩ có thể làm rõ những bất thường và giải thích chi tiết cho bệnh nhân hiểu về tình hình sức khỏe của bản thân. Đồng thời bác sĩ sẽ cân nhắc để đưa ra phương hướng chữa trị phù hợp.