Tham vấn y khoa: Bác sĩ Trương Thị Hương | Tác giả: Duyên Nguyễn Ngày đăng: Tháng sáu 5, 2022
Mục Lục Bài Viết
Xét nghiệm sinh học phân tử là thuật ngữ được sử dụng để chỉ các xét nghiệm nhằm mục đích phát hiện ra những chỉ thị sinh học ở mức độ phân tử. Ví dụ như một số đoạn Axit Nucleic, các gen hoàn chỉnh, thậm chí là những bộ gen của vi sinh vật.
Xét nghiệm sinh học phân tử là một phản ứng tổng hợp chuỗi gen PCR. Kỹ thuật này được xem là bước tiến nhảy vọt từ thành công của phương pháp nhận dạng và giải trình gen. Xét nghiệm sinh học phân tử giúp bác sĩ xác định tác nhân gây bệnh đúng và nhanh chóng để phục vụ cho quá trình chữa trị hiệu quả hơn.
Người ta bắt buộc phải dùng chứng dương và âm trong xét nghiệm sinh học phân tử. Chứng dương là những mẫu chứng chứa đoạn ADN/ARN mục tiêu đã biết trước đó. Chứng âm là các mẫu chứng sở hữu đoạn ADN/ARN mục tiêu giúp kiểm soát quá trình nhiễm chéo khi tiến hành những phản ứng. Xét nghiệm sinh học phân tử dùng 2 kỹ thuật chính đó là PCR và Real-time PCR:
Dựa vào phản ứng PCR có thể nhận diện vi khuẩn một cách nhanh chóng. Sẽ có khoảng 20 – 35 vòng trong mỗi phản ứng tổng hợp PCR. Sau mỗi vòng, DNA sẽ được khuếch đại theo hệ số mũ. Để cho ra kết quả chính xác, khi thực hiện kỹ thuật tổng hợp PCR cần lưu ý lấy bệnh phẩm trong nồng độ phù hợp và điều nhiệt đúng với từng giai đoạn.
Trường hợp có sai sót, phản ứng PCR sẽ xảy ra với hiệu suất thấp. Thậm chí có khả năng không xảy ra, làm phản ứng PCR âm tính dù bệnh nhân xuất hiện triệu chứng lâm sàng rất rõ ràng. Đôi khi vô tình để phản ứng nhiễm chéo giữa các mẫu chứng diễn ra khiến PCR dương tính ngay cả khi dấu hiệu lâm sàng của người bệnh không rõ ràng, rất mờ nhạt.
Real-time PCR cũng tương tự như kỹ thuật PCR. Tuy nhiên ở đây sẽ có thêm một thiết bị để ghi lại tín hiệu khi phản ứng tổng hợp PCR xảy ra. Kỹ thuật này sẽ dựa trên việc so sánh số vòng mẫu chuẩn và số vòng mẫu thử có được trong cùng một khoảng thời gian xảy ra phản ứng. Nhờ đó có thể tính được số vòng mẫu thử gấp bao nhiêu lần số vòng mẫu chuẩn. Sau dùng, kỹ thuật viên sẽ tính được nồng độ DNA của mẫu thử.
Xét nghiệm sinh học phân tử phải được tiến hành trong điều kiện rất khắt khe. Nếu không đảm bảo các quy định ấy sẽ cho ra những hạn chế, sai sót:
Mẫu chuẩn phải thật chính xác thì định lượng mẫu thử mới đúng. Để loại trừ trường hợp sai sót, thông thường kỹ thuật viên phải so sánh 1 mẫu thử với 5 mẫu chuẩn liên tiếp sở hữu nồng độ chênh lệch nhau. Cho đến khi kết quả của mẫu thử sau 5 lần so sánh với những mẫu chuẩn không chênh lệch quá giới hạn thì mới được chấp nhận. Điều này đòi hỏi kỹ thuật viên phải có chuyên môn và tính kiên nhẫn cao. Nếu không kết quả sẽ có sự sai lệch. Xét nghiệm sinh học phân tử có 2 hạn chế điển hình:
Như vậy, dù là phương pháp hiện đại nhưng xét nghiệm sinh học phân tử vẫn tồn tại những hạn chế, có thể gây ra sơ sót từ quá trình thực hiện của kỹ thuật viên.
Dưới đây là ứng dụng của xét nghiệm sinh học phân tử trong việc chẩn đoán HBV và HIV:
Người ta có thể ứng dụng các xét nghiệm sinh học phân tử để làm HBV đo tải lượng hệ thống tự động. Qua đó giúp nhận diện HBV đồng thời xác định được số lượng virus trước khi tiến hành chữa trị. Đồng thời, chúng ta cũng theo dõi được số lượng virus trong suốt khoảng thời gian điều trị, quan sát và đánh giá sự tăng giảm để kịp thời đưa ra phương pháp cải thiện:
HBV đo tải lượng Real-time PCR: Như đã đề cập ở trên, nó tương tự như PCR nhưng có thêm thiết bị tính toán về khoảng thời gian phản ứng PCR xảy ra để xác định nồng độ và số lượng của mẫu thử trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, có thể giúp chẩn đoán một cách chính xác về tình trạng, giai đoạn bệnh cũng như sự phát triển của các yếu tố gây bệnh.
Bên cạnh đó, để việc chẩn đoán được chính xác hơn, còn ứng dụng thêm các kỹ thuật:
Tương tự như hình thức xét nghiệm sinh học phân tử ở HBV, với HCV người ta cũng định tính thông qua kỹ thuật PCR, xác định kiểu gen HCV và đo tải lượng virus HCV.
Người ta sẽ dùng xét nghiệm sinh học phân tử để đo tải lượng hệ thống tự động. Qua đó giúp kỹ thuật viên định lượng virus đang tồn tại bên trong cơ thể. Lúc này, bác sĩ sẽ chẩn đoán chính xác hơn và đề ra phác đồ chữa trị tối ưu nhất.
Trên lâm sàng hiện có rất nhiều vi sinh gây bệnh, đặc biệt là các chủng mới như SARS, HCV, HIV,… hay chủng nấm đơn giản. Nếu chỉ sử dụng kỹ thuật xét nghiệm vi sinh cổ điển sẽ đáp ứng chậm hoặc không thể xác định được tác nhân gây bệnh, ảnh hưởng đến quá trình chẩn đoán. Khi đó, xét nghiệm sinh học phân tử sẽ giải quyết được những hạn chế này, giúp bác sĩ đưa ra chẩn đoán chính xác, nhanh chóng.
Tương tự như HIV, HBV, để chẩn đoán những bệnh lý khác như viêm gan C, nhiễm Adenovirus, Mycoplasma, Dengue Virus, nấm Chlamydia,… người ta cũng áp dụng xét nghiệm sinh học phân tử với kỹ thuật Real-time PCR, tổng hợp PCR.