Tác giả: Duyên Nguyễn Ngày đăng: Tháng mười 20, 2022
Mục Lục Bài Viết
Bệnh dại do virus dại gây ra. Nó lây lan từ động vật sang người thông qua chất tiết, thường là nước bọt nhiễm virus bệnh dại. Bệnh có 2 thể lâm sàng là dại câm (bại liệt) và dại điên cuồng. Trong đó, phổ biến nhất là thể điên cuồng. Đa phần các trường hợp bị phơi nhiễm đều do vết liếm, cắn của động vật mắc bệnh dại. Đôi khi có trường hợp nhiễm bệnh dại do hít phải khí dung hoặc ghép phải tổ chức mới nhiễm virus. Nếu không kịp thời tiêm vắc xin, người mắc bệnh dại có nguy cơ tử vong rất cao.
Bệnh dại ở người có biểu hiện đầu tiên là một hội chứng nhiễm trùng bình thường. Sau đó, bệnh nhân bị rối loạn cảm giác ở xung quanh vết thương (ngứa hoặc đau ở vết cắn). Bệnh nhân có thể gặp triệu chứng đau đầu, mệt mỏi, sốt, sợ ánh sáng, gió, nước. Những dấu hiệu viêm não bao gồm ảo giác, hung tợn, co giật, hôn mê và động kinh. Bệnh nhân tử vong trong 3 – 4 ngày do ngưng thở bởi một cơn liệt cơ hô hấp hoặc co thắt.
Người tiêm vắc xin dại muộn khi bị động vật dại cắn sẽ có triệu chứng không điển hình và chưa đầy đủ. Bệnh nhân có thể bị liệt dần dần từ chân trở lên, khi liệt đến cơ hô hấp thì tử vong.
Viêm não là biểu hiện của bệnh dại ở động vật. Chó, mèo bị dại thường cắn chủ nhà, bỏ ăn. Sau đó, bệnh chuyển sang giai đoạn toàn phát với biểu hiện một trong 2 thể: Thể cuồng (cào bới đất, chạy rông, cắn con vật khác và người) hoặc thể liệt (liệt nằm một chỗ).
Virus dại có những đặc điểm như sau:
Virus dại (Rhabdovirus) gây ra bệnh dại ở người và động vật thuộc giống Lyssavirus, họ Rhabdoviridae. Virus dại có đường kính từ 70 – 80 nm, dài trung bình 100 – 300 nm, hình viên đạn hoặc quả trứng. Bộ gen di truyền của virus bệnh dại là ARN.
Virus dại có thành phần bao gồm: Protein (67%), Lipid (26%), Carbohydrate (3%), ARN (1%). Hiện có 2 chủng virus dại là dại cố định (cố định thời gian ủ bệnh trên thỏ) và dại đường phố (virus tồn tại trên động vật mắc bệnh).
Virus dại ở nhiệt độ thường sẽ sống được từ 1 – 2 tuần. Do đó, đồ dùng dính nước bọt của người hoặc động vật mắc bệnh dại cũng rất nguy hiểm. Virus dại có thể sống được nhiều tháng ở nhiệt độ 4 độ C. Virus dại có thể tồn tại rất lâu trong điều kiện – 80 độ C hoặc đông khô. Virus dại chết sau 5 phút ở 60 độ C. Virus dại chết sau 1 phút ở điều kiện 100 độ C. Virus bệnh dại bị bất hoạt nhanh trước các tác nhân như Formol 0,05%, Cloramin 5%, xà phòng, cồn Iod, tia cực tím,…
Đường lây: Virus dại thường đi từ nước bọt của động vật hoặc người mắc bệnh sang động vật và người khác thông qua vết cắn. Đôi khi virus có thể lây truyền thông qua vết cào xước dính nước bọt hoặc vết liếm của động vật lên khu vực da bị trầy. Bên cạnh đó, virus cũng có thể truyền từ người sang người thông qua quá trình cấy ghép giác mạc hoặc nội tạng khác (hiếm gặp).
Đường đi của virus bệnh dại trong cơ thể: Từ vết cắn, virus dại sẽ phát triển ở lớp trong cùng của cả mô dưới da hoặc cơ bắp rồi tiến vào dây thần kinh ngoại biên. Virus tiếp tục di chuyển dọc theo dây thần kinh lên não, làm tế bào thần kinh ở hành tủy, vùng sừng Amon bị tổn thương. Ước tính tốc độ di chuyển của virus là 12 – 24 mm/ngày.
Virus bệnh dại di chuyển từ hệ thần kinh trung ương đến tuyến nước bọt thông qua dây thần kinh. Nó sẽ làm ô nhiễm tuyến nước bọt, giác mạc, dịch não tủy, các tuyến nhầy ở da và mũi. Khi virus xâm nhập vào não bộ, bệnh nhân sẽ có biểu hiện lâm sàng và những thay đổi về hành vi.
Thời kỳ ủ bệnh: Thời gian ủ bệnh ở người thường kéo dài từ 2 – 8 tuần. Đôi khi thời gian ủ bệnh sẽ rất dài từ 1 – 2 năm hoặc chỉ trong vòng 10 ngày. Thời gian ủ bệnh sẽ còn phụ thuộc vào những yếu tố như số lượng virus xâm nhập, khoảng cách từ vết thương đến não bộ, mức độ nặng nhẹ của vết thương. Vết thương nghiêm trọng, gần với hệ thần kinh trung ương thì thời gian ủ bệnh sẽ ngắn.
Hiện vẫn chưa có thuốc đặc trị bệnh dại. Đặc biệt, bệnh có tỷ lệ tử vong gần như là 100% nếu không tiến hành tiêm vắc xin kịp thời. Do đó, mỗi người cần chủ động chủng ngừa vắc xin để phòng chống bệnh dại hiệu quả, giảm tối đa những nguy cơ khó lường có thể diễn ra khi bị động vật cắn.