Tham vấn y khoa: Bác sĩ Trương Thị Hương | Tác giả: Duyên Nguyễn Ngày đăng: Tháng năm 26, 2022
Mục Lục Bài Viết
Trong thời kỳ thai nghén, tiền sản giật là biến chứng sản khoa nghiêm trọng, thường gặp ở tam cá nguyệt thứ ba. Tiền sản giật không chỉ khiến mẹ bầu gặp nguy hiểm mà còn là nguyên nhân chính gây tử vong sơ sinh. Chủ yếu là do sinh non tháng, phải chấm dứt thai kỳ sớm vì thai chậm tăng trưởng trong tử cung, chết lưu, suy dinh dưỡng,… Vậy xét nghiệm tiền sản giật có nghĩa gì?
Khi thai phụ có nguy cơ cao mắc bệnh hoặc xuất hiện dấu hiệu thì cần làm xét nghiệm tiền sản giật. Thông qua kết quả xét nghiệm, bác sĩ có thể kịp thời lên phác đồ can thiệp, ngăn ngừa biến chứng nguy hiểm cho cả mẹ và bé. Dấu hiệu sớm của bệnh tiền sản giật gồm có:
Một số nguy cơ của bệnh tiền sản giật gồm có:
Theo các chuyên gia, xét trên lâm sàng mức độ nghiêm trọng của bệnh tiền sản giật sẽ được đánh giá dựa vào phạm vi chính mà nó có thể ảnh hưởng như: Hệ thống thận, gan, huyết học, thần kinh trung ương và đơn vị thai nhi – rau thai. Như vậy, căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng, mức độ nặng nhẹ của bệnh, bác sĩ sẽ đánh giá được tình trạng sức khỏe của cả mẹ và bé. Từ đó đề ra kế hoạch chữa trị, theo dõi phù hợp.
Tương tự như bệnh tăng huyết áp, trước khi chuyển biến nghiêm trọng, tiền sản giật sẽ không có biểu hiện quá rõ rệt. Do đó, để theo dõi tốt sức khỏe của em bé và bản thân, mẹ bầu nên đo huyết áp thường xuyên. Với thai phụ có huyết áp trêm 140/90 mmHg, bác sĩ có thể chỉ định cho làm một số xét nghiệm tiền sản giật dưới đây:
PLGF là một chất do nhau thai tiết ra. Nó là loại Protein tiền sinh mạch máu (Proangiogenic Protein) có liên quan trong việc điều hòa chức năng nội mô của mẹ bầu và sự phát triển hệ thống mạch máu trong bánh nhau. Ngoài ra, kết quả xét nghiệm máu cũng hỗ trợ bác sĩ đánh giá chức năng hoạt động của một số cơ quan như gan, thận. Đồng thời, nó cũng cho thấy hàm lượng tiểu cầu có trong máu. Đây chính là yếu tố vô cùng quan trọng đối với chức năng đông máu và quá trình hồi phục vết thương.
Tổn thương thận hay những hội chứng khác như HELLP có thể được phát hiện thông qua hình thức xét nghiệm máu. Trong đó, HELLP là từ viết tắt của hội chứng phá hủy các tế bào máu đỏ – tán huyết, số lượng tiểu cầu và tình trạng men gan cao. Biểu hiện cụ thể là buồn nôn, nôn, đau đầu, bên phải bụng có cảm giác đau. Lượng Axit Uric trong máu tăng cao là một trong những dấu hiệu sớm của bệnh tiền sản giật.
Tỷ lệ Protein/Creatinin và lượng Protein được đào thải qua đường tiểu đều là các trị số quan trọng trong việc xác định mức độ của bệnh tiền sản giật. Bác sĩ sẽ chỉ định cho mẹ bầu làm xét nghiệm nước tiểu trong vòng 24 giờ để đo được những trị số này. Ngoài ra, xét nghiệm nước tiểu cũng cho thấy dấu hiệu tổn thương của thận do bệnh tiền sản giật nếu lượng đạm đo được vượt mức 300 mcg.
Phương pháp siêu âm giúp bác sĩ đánh giá tình hình phát triển của em bé, ước lượng cân nặng và kiểm tra lượng nước ối xem có gì bất thường hay không. Quan trọng nhất vẫn là đo trở kháng động mạch tử cung. Vì ở mẹ bầu bị tiền sản giật, kháng động mạch tử cung sẽ gia tăng.
Kiểm tra nhịp tim sẽ giúp bác sĩ theo dõi được sức khỏe của thai nhi trong lúc vận động. Kết quả đo sức khỏe thai nhi và dữ liệu từ phương pháp siêu âm sẽ tạo nên trắc đồ sinh lý học về hoạt động hô hấp, chuyển động của em bé cũng như hàm lượng nước ối hiện có trong tử cung. Bên cạnh đó, tùy vào từng trường hợp cụ thể, bác sĩ sẽ chỉ định cho thai phụ thực hiện thêm một số xét nghiệm:
Dưới đây là cơ sở thực hiện và quy trình xét nghiệm tiền sản giật:
Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền sản giật chủ yếu phụ thuộc vào nồng độ Protein niệu (đạm niệu) và huyết áp cao. Hiện nay, kỹ thuật xét nghiệm máu có khả năng giúp bác sĩ phát hiện ra dấu hiệu từ sớm. Đồng thời mẹ bầu có thể thực hiện ngay ở tam cá nguyệt đầu tiên. Nhờ đó hỗ trợ đắc lực cho việc tiên lượng ngắn hạn và chẩn đoán nguy cơ tiền sản giật.
Với phương pháp này, mẹ bầu sẽ được chỉ định làm xét nghiệm máu xác định tỷ số sFlt-1/PIGF. Thông thường, nồng độ PIGF và sFlt-1 sẽ thay đổi theo từng giai đoạn của thai kỳ. Trước khi xuất hiện triệu chứng lâm sàng của tiền sản giật, nồng độ của hai yếu tố này sẽ có sự thay đổi, làm tỷ số sFlt-1/PIGF gia tăng.
Xét nghiệm tiền sản giật ở tam cá nguyệt đầu tiên thường được thực hiện cùng với Combined test (tầm soát những bất thường về nhiễm sắc thể 13, 18, 21) vì có thể tiến hành trên cùng một mẫu máu. Loại xét nghiệm này không xâm lấn và rất an toàn.
Bước 1: Thu thập thông tin của mẹ bầu về tiền căn bệnh lý gia đình và bản thân, cân nặng, độ tuổi và chiều cao.
Bước 2: Xét nghiệm máu
Thu thập mẫu máu của mẹ bầu từ 11 tuần – 13 tuần 6 ngày để tiến hành đo nồng độ PLGF trong máu. Thông thường, trong 2 quý đầu của thai kỳ, PLGF sẽ gia tăng và giảm dần ở quý 3. Chất này sẽ giảm nhiều trong máu của mẹ bầu có nguy cơ bị tiền sản giật.
Bước 3: Đo huyết áp động mạch trung bình
Bước 4: Siêu âm bụng đo chỉ số xung động mạch tử cung
Trở kháng động mạch tử cung sẽ giảm theo tuổi thai ở thai kỳ bình thường. Nhưng chỉ số trở kháng sẽ tăng trong các thai kỳ bị tiền sản giật hay chậm tăng trưởng.
Chúng ta vừa tìm hiểu về phương pháp xét nghiệm tiền sản giật. Vậy cần điều trị bệnh lý này như thế nào? Để chữa trị hiệu quả, bác sĩ phải xây dựng phác đồ phù hợp với mục tiêu và mức độ của bệnh, cụ thể gồm có:
Trường hợp bị bệnh nhẹ
Trường hợp mức độ bệnh từ trung bình đến nặng
Theo khuyến nghị từ bác sĩ, mẹ bầu nên nhịn ăn trước khi xét nghiệm tiền sản giật để nhận được kết quả chính xác. Tốt nhất, thai phụ nên tiến hành làm xét nghiệm vào buổi sáng.